Monday, February 29, 2016

Cách làm khoan đơn giản chỉ bằng đá và gậy


NPK - Khi đi du lịch, dã ngoại, dĩ nhiên cần chuẩn bị các đồ dùng thiết yếu cho việc sinh hoạt cắm trại và nghỉ ngơi. Lần trước đã có bài về các dụng cụ cần mang theo khi đi phượt rất hay, nay thêm một kỹ năng quan trọng trong chuyến hành trình là làm khoan từ vật dùng củi và đá để lấy lửa. Rất đơn giản và dễ nhưng không phải ai cũng biết.

===============

Cách làm khoan đơn giản chỉ bằng đá và gậy


Tài khoản YouTube Primitive Technology đã thực hiện một video tổng hợp những cách "chế tạo" khoan tay vô cùng đơn giản chỉ bằng hai vật liệu chính là que gỗ và đá. Hữu dụng hơn hết khi toàn bộ những vật liệu này hoàn toàn có thể kiếm được trong tự nhiên và rất cần thiết để tạo lửa trong trường hợp cần kíp.

làm khoan

Điều kiện tiên quyết là kiếm được một hòn đá tương đối bằng phẳng và dẹp để dễ dàng đục lỗ xuyên qua ở giữa. Sau khi đã đục thành công một lỗ ở chính giữa hòn đá, chúng ta cần kiếm một que gỗ nhỏ xiên qua lỗ để làm thân của chiếc khoan tự chế.

Trong video, tài khoản Primitive Technology đồng thời còn tạo thêm mũi khoan bằng việc sử dụng một mẫu đá sắc nhọn. Mẩu đá này được gắn cố định vào khe ở đầu của thân khoan với nhiệm vụ đục lỗ, gây ma sát và làm cháy bùi nhùi ở dưới để tạo lửa.

Đầu trên của thân khoan được gắn một loại dây rừng bện chặt có khả năng đàn hồi khi kéo. Bằng thao tác kéo và thu dây liên tiếp, khoan tự chế có thể xoay liên tục và đục được lỗ trên nhiều chất liệu khác nhau như thân cây hoặc đá. Ngoài ra, video cũng giới thiệu một mẹo nhỏ giúp tránh mỏi tay khi khoan bằng cách gắn thêm một thanh gỗ ở hai đầu dây và thực hiện thao tác nhấn lên xuống để có được tác dụng tương tự.


Cách làm khoan tự chế bằng các vật liệu vô cùng đơn giản.

Tham khảo PopularMechanics

--------------------
Nguồn: genk.vn

Sunday, February 28, 2016

Hình ảnh tuyến đường sắt răng cưa Đà Lạt - Phan Rang

NPK- Thay vì, coi con đường sắt này là di sản, là bảo vật của quốc gia để có chính sách bảo vệ nâng cấp và khai thác hiệu quả. Người ta đã làm ngược lại là hủy hoại và ruồng bỏ nó. Đáng tiếc lắm thay, cho một Dalat mộng mơ, lãng mãn.

Suy rộng ra, sự văn minh hay mọi rợ; sự hoành tráng hay khoa trương, sáo rỗng; sự vĩ đại hay học đòi, rẻ tiền; nằm ở cách người ta ứng xử với quá khứ, hiện tại chứ không bao giờ nằm ở những diễn văn được viết bởi những cái đầu phá hoại. Những kẻ phá hoại thì không bao giờ có nhân cách cao quý được. Mãi mãi là như vậy!

- Xin lưu lại những tấm hình quý giá này từ FB Nguyễn Bảo Châu như để nhắc nhớ về thời vàng son của Dalat - một châu Âu giữa vùng nhiệt đới !

========================

ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA PHAN RANG - DALAT

AI ĐÃ HỦY HOẠI CON ĐƯỜNG SẮT HUYỀN THOẠI KHÔNG CHỈ CỦA VIỆT NAM MÀ LÀ CỦA CHÂU Á VÀ CỦA THẾ GIỚI: CON ĐƯỜNG SẮT RĂNG CƯA THÁP CHÀM – ĐÀ LẠT?

Gọi là con đường huyền thoại vì đây là một trong hai tuyến đường sắt răng cưa leo núi của Thế giới: một của Việt nam và một của Thụy sĩ. Con đường của VIệt nam kỳ vĩ hơn vì nó vừa dài lại có độ độ dốc lớn hơn con đường của Thụy sĩ.( VN dài 84 km, trong đó có tới 43 km đường răng cưa; Thụy sĩ chỉ có gần 25 km ở đoạn vượt qua đèo Furka trên dãy Alpes)

Con đường sắt răng cưa nối liền Phan Rang - Đà Lạt được bắt đầu thi công vào năm 1908 ( có tàii liệu nói sớm hơn vài năm) theo lệnh của Toàn quyền Paul Doumer. Sau nhiều năm gian khổ xây dựng, đến năm 1932 chính thức hoạt động.

Con đường sắt này một thời là cầu nối hữu ích và thơ mộng giữ miền biển Nam Trung bộ với thành phố du lịch Dalat trên cao nguyên Lâm viên.

Nhưng vì “ chiến sự ác liệt” nên đến năm 1972 con đường sắt huyền thoại này phải ngừng hoạt động!?

Sau khi “giải phóng miền nam”, lẽ ra người ta phải khôi phục lại con đường sắt đặc biệt quý giá này, thì vào năm 1986 Liên hiệp Đường sắt Việt nam đã cho tháo ray và tà vẹt để phục vụ cho việc sửa chữa đường sắt Thống nhất. Những đoạn đường ray răng cưa hiếm hoi và giá trị, cùng những cái gì gọi là sắt đều bị người ta bán làm sắt vụn dần dần từ năm 1980- 2004 thì hết sạch ( cả cây cầu đường sắt Đ'ran đẹp như trong tranh cũng bị tháo ra bán nốt!?).Cứ vậy mà từ một con đường sắt dài gần 100km, nay chỉ còn lại một phần ngắn ngủn là hoạt động, đó là đoạn từ Dalat đi Trại mát.

Câu chuyện đau buồn này chưa dừng lại ở đây. Sau khi tuyến đường sắt gần như bị khai tử, thì ngay sau đó Cục Đường sắt VN đã hạ bút ký bán lại cho công ty DFB của Thuy sĩ 7 đấu máy hơi nước + một số toa hạng nhất với cái giá rẻ mạt là 650 000 USD? Người ta gọi đây là chiến dịch "Back To Switzerland ". Chiến dịch kết thúc, những người Thụy sĩ khôn ngoan đã mang món hàng quá hời này về nước tu sửa lại. Rồi từ đó những đầu máy hơi nước độc đáo và hiếm hoi này ngày ngày rong ruổi vuợt dãy Alpes, hót bạc đổ vào túi các ông chủ của công ty DFB!?( 60 USD/vé). Trong khi đó ở VN, tại ga DL, chì còn lại một đầu máy hơi nước để phơi nắng mưa cùng tháng năm và là chỗ để cho thiên hạ thoải mái leo trèo lên để chụp hình kỷ niệm? Mấy toa tàu hạng bét được kéo bằng đầu máy chạy điện, ngày ngày lọc xọc đưa khách du lịch chạy đi chạy lại từ Dalat đi Trại Mát!?

Hỡi những ai ngày ngày đến tham quan ga Dalat, leo lên cái đàu máy hơi nước duy nhất còn lại để chụp hình kỷ niêm, hãy nên biết câu chuyện tiếc nuối về một con đường sắt răng cưa huyền thoại của Việt nam, của châu Á , của Thế giới đã bị người ta hủy hoại một cách lục lâm và ngu dốt như thế đấy!?

xe lửa đalat

Chiếc đầu máy duy nhất và vô cùng quý giá này ( Có hệ thống bánh răng để leo núi ), ngày tháng nằm phơi nắng mưa và là chỗ cho du khách thoải mái leo lên chụp hình kỷ niệm?

đường sắt

Một đoạn đường sắt leo nú : Đường răng cưa nằm giữa 2 đường sắt bình thường ). xây dựng đường sắt kiểu này rất khó khăn và tốn kém.

người Pháp

Đại úy Baudesson và đoàn tùy tùng lên cao nguyên Lâm Viên khảo sát địa hình cho tuyến đường sắt Phan Rang - Dalat.

làm đường sắt

Nắm 1908 tuyến đường sắt chính thức được khởi công xây dựng. Vì địa hình đồi núi phức tạp, lắm dốc cao, lại phải xây dựng thêm đường răng cưa ở giữa 2 đường trơn, nên việc xây dựng tuyến đường này cực kỳ khó khăn.

đường sắt răng cưa dalat

Độ dốc của nhiều đoạn trong tuyến đường này rất lớn ,lên tới 12 phần trăm.( độ dốc tuyến đường ở đèo Furka bên Thụy sĩ tối đa là 11,8 phần trăm ) Để vượt được độ dốc này, người Pháp đã cho nhập loại đầu máy HG 4/4 của Thụy Sĩ là loại tuy cổ nhưng lại có công suất lớn.( bên Thụy Sĩ, để vượt đèo Furka, người ta chỉ cần dùng loại đầu máy HG thôi )

đường sắt

Năm 1932 toàn tuyến đường sắt dài gần 100 km chính thức hoàn thành và được đưa vào sử dung. Đây là tuyến đường sắt răng cưa dài nhất và độc đáo nhất kg chỉ của Việt Nam mà là của Thế giới.

vua bao đại

Vua Bảo Đại và Toàn Quyền Pháp Rene Robin khánh thành tuyến xe lửa .

đầu máy xe lửa cũ

Những chuyến tàu thời hoàng kim hối hả đi về giữa Dalat và Phan rang.

cầu Dran

Tàu đang qua cầu Đ' Ran.

toa xe cũ

Hành khách trên chuyến xe lửa rất độc đáo này. Việc đi lại giữa Dalat cùng vùng cao nguyên với miền biển rất thuận tiện.

hàng hóa

Rau quả từ Dalat được đưa lên tàu chuyển về miền biển; ngược lại hải sản, vật liệu xây dựng ...được chuyển lên cao nguyên. Vậy mà vì "chiến sự ác liệt " , tuyến đường sắt thơ mộng và hữu ích này đã bị khai tử!?

đầu máy bị bỏ đi

Sau khi tuyến đường sắt ngưng hoạt động, các đầu máy quý giá này ( được chế tạo tại Thụy Sĩ ) bị bỏ lăn lóc quanh khu vực ga Dalat.

vận chuyến bán cho thụy sĩ

Rồi bị người ta chuyển lại bán cho Thụy Sĩ ( nơi trước kia chế tạo ra những đầu máy này ) với cái giá rẻ mạt.

phục hồi

Những đầu máy đã được tập kết về Thụy Sĩ và được tu sửa lại rất hoành tráng!

làm du lịch

Và đây, tuyệt vời chưa?

tham quan

Rồi rong ruổi trên đất Thụy Sĩ!?

dĩ vãng trở về

Các chuyến xe độc đáo chuẩn bị vượt đèo Furka ở Thụy sĩ. Tiếc thật!

dalat

Trong khi đó ở ga Dalat chỉ còn lại một chiếc đầu máy đứng cô đợn và tàn tạ, khiến cho những ai biết suy nghĩ và có lòng tự trọng đều kg khỏi bùi ngùi và tiếc nuối.

hoang phế

Rồi ngày ngày có vài toa hạng bét chạy lọc cọc chở khách Tây ưa của hiếm và những hành khách hoài cổ Việt Nam chạy đi, chạy lại giữa Dalat và Trại Mát.

hoang tàn

Một điều rất buồn là người ta lại dùng đầu máy chạy điện để vận hành những chuyến xe. Chiếc đầu máy hơi nước bị liệt được để nằm ì ở sân ga.

qua khứ

Hình ảnh nhà ga xe lửa Dalat.. Đậy là một nhà ga được xếp vào loại đẹp nhất Đông Nam Á . Nhà ga được thiết kế giống với hình dáng ngọn núi Lang Bian trên cao nguyên Lâm Viên, đồng thời mang cốt cách giống như các nhà ga ở miền Nam nước Pháp. Đây là kiệt tác của hai KTS Moncet và Reveron. Nhà ga này được xây dựng từ năm 1932 đến năm 1938 thì hoàn thành.

=======
Nguồn: Fb Nguyễn Bảo Châu

Saturday, February 27, 2016

Hai nhiệm kỳ Thủ tướng: Việt Nam tiến hay lùi?



ảnh AFP
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, ảnh minh họa chụp hôm 2/7/2015 tại Hà Nội. AFP
Nhóm quyền lợi xâu xé nền kinh tế

Ông Nguyễn Tấn Dũng sẽ rời cương vị Thủ tướng trong vài tháng nữa, hai nhiệm kỳ kéo dài 10 năm của ông để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng. Tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên, một núi nợ công khó trả, những nhóm quyền lợi xâu xé nền kinh tế, bất công và tham nhũng tràn lan. Bên cạnh sự phân hóa giàu nghèo đến mức độ khó tưởng tượng, còn là thực tế Việt Nam đã tụt hậu so với các nước láng giềng trong khu vực vài chục năm. Ông Nguyễn Tấn Dũng tất nhiên có trách nhiệm của người đứng đầu chính phủ, nhưng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ trương lấy quốc doanh làm chủ đạo không phải là của riêng ông, mà là của Đảng Cộng sản và ông là người đứng ra thực hiện.

Trên báo chí Việt Nam, không ít lần Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tự hào là đã đưa Việt Nam vào danh mục các quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Thu nhập đầu người ở Việt Nam khi ông Nguyễn Tấn Dũng khởi sự nhiệm kỳ vào năm 2006 là 715 USD đã leo lên 2.109 USD vào cuối năm 2015. Tuy vậy nợ công của Việt Nam trong 10 năm qua cũng tăng chóng mặt, năm 2006 là 22,7% GDP và đến cuối năm 2016, lúc ông Nguyễn Tấn Dũng chuẩn bị từ giã sự nghiệp chính trị, nợ công được dự báo là 64,9% GDP. Điều này được chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng xác định với Quốc hội ngay từ những tháng đầu năm 2015 và được báo Dân Trí đưa lên mạng ngày 12/2/2015.

Trả lời Nam Nguyên tối 25/2/2016, Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa phó Hiệu trưởng Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội nhận định:

Năng suất lao động của Việt Nam so với các nước lân cận như Thái Lan, Singapore thì Việt Nam rất kém cỏi. Nếu có tăng về xuất khẩu hay bề nổi sự phát triển công nghiệp nói chung, tôi cho rằng phần lớn là nhập khẩu chứ chưa có một cái gì gọi là tự lực cánh sinh cả.
-GS Vũ Văn Hóa
Thu nhập tăng lên thì thực ra không đúng thực tế, đấy chỉ là con số báo cáo chứ rất ít người tin rằng chuyện đó là có thật. Nợ công nói rằng sáu mươi mấy phần trăm thì tôi không tin, nó phải hơn số đó rất nhiều. Thống kê còn chênh lệch nhau quá mức, thậm chí nói kinh tế của các tình thành phố tăng lên vuợt bực nhưng kinh tế cả nước thì chậm lại. Thực tế mà nói thì cũng chỉ được cái bề mặt, chứ thực sự nền kinh tế vẫn còn đang tụt hậu so với thế giới, tôi cho là không phải vài ba chục năm mà còn nhiều hơn nữa.”

Như vậy nền kinh tế Việt Nam trong 10 năm qua đã có những tiến bộ gì đáng kể. Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa tiếp lời:

Năng suất lao động của Việt Nam so với các nước lân cận như Thái Lan, Singapore thì Việt Nam rất kém cỏi. Nếu có tăng về xuất khẩu hay bề nổi sự phát triển công nghiệp nói chung, tôi cho rằng phần lớn là nhập khẩu chứ chưa có một cái gì gọi là tự lực cánh sinh cả. Nếu thẳng thắn nhận xét thì nền kinh tế Việt Nam vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển và tụt hậu so với mức phát triển của thế giới.”

Ngày 20/2/2016 Saigon Times online đưa lên mạng bài viết ‘Nhìn lại chủ trương lấy quốc doanh làm chủ đạo’ của TS Vũ Quang Việt nguyên chuyên viên kinh tế của Liên Hiệp Quốc. Bài viết không nêu tên người đứng đầu chính phủ nhưng thực tế đánh giá 10 năm 2006-2015 Việt Nam hai lần thất bại trong chính sách lấy quốc doanh làm chủ đạo để nhắm tốc độ tăng GDP cao.

Trong bài TS Vũ Quang Việt chỉ ra những chính sách đã tạo ra bất ổn trong nền kinh tế từ năm 2006 đến nay. Chúng tôi xin phép trích thuật: “Sự bất ổn này có thể kể ra gồm lạm phát cao, nợ cao khó trả, ngân sách thiếu hụt lớn, chênh lệch giàu nghèo. Tất cả là kết quả của chủ trương xây dựng doanh nghiệp lấy quốc doanh làm chủ đạo - không hẳn là theo đúng tinh thần Hiến pháp 2013 và trước đó. Và đi cùng với chủ trương này là việc cho phép lập hàng loạt công ty con, kể cả ngân hàng chứng khoán, xây dựng và buôn bán địa ốc, nửa công nửa tư ăn theo - chủ yếu là các loại doanh nghiệp dịch vụ đầu cơ, rồi tập trung vốn cho chúng.”

Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 hôm 25/1/2016.
TT Nguyễn Tấn Dũng (đứng) tại Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam lần thứ 12 hôm 25/1/2016.
TS Vũ Quang Việt phân tích sự khác biệt về vai trò quan trọng của nhà nước đối với nền kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa kiểu cũ và các nước kinh tế thị trường. Một phía nhà nước nắm toàn bộ nền kinh tế, vai trò tư nhân không đáng kể. Phía kia, nhà nước có vai trò xây dựng và thi hành luật pháp nhằm bảo đảm các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng và chính quyền chỉ can thiệp vào chính sách vĩ mô nhằm ổn định thị trường. đồng thời thực hiện các đầu tư công mà khu vực tư nhân không muốn hay không có khả năng đáp ứng. Kinh tế tăng trưởng mạnh hay yếu là tùy thuộc vào sự cạnh tranh vì lợi nhuận của tư nhân.

Vẫn theo TS Vũ Quang Việt và SaigonTimes Online : “Việt Nam cổ võ cho tư duy lấy quốc doanh làm chủ đạo, công hữu hóa đất đai mà thực tế là giao cho chính phủ quyền làm chủ đất đai và phân phối cho ai tùy ý, dùng tiền ngân sách và tín dụng mà mình kiểm soát lập ra các doanh nghiệp quốc doanh, từ đó giới có quyền thế tạo ra các công ty con nửa nhà nước nửa tư nhân, trong một hệ thống gọi là tập đoàn để lợi dụng ưu đãi về tín dụng và thu dụng đất công làm của tư.

Việt Nam đã tụt hậu hàng chục năm

Chúng tôi xin nhắc lại, các Tập đoàn quốc doanh được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ví von là những quả đấm thép của nền kinh tế đã không mang lại hiệu quả như mong muốn. Sự sụp đổ của Tập đoàn Vinashin làm thất thoát 86.000 tỷ đồng năm 2010, hay các vụ bê bối và thất thoát tiền nhà nước ở Vinalines là những ví dụ điển hình. Ngoài ra chính sách lấy quốc doanh làm chủ đạo mà sau này đổi là khu vực kinh tế Nhà nước chủ đạo nền kinh tế.

Sau hai nhiệm kỳ tổng cộng 10 năm áp dụng chính sách lấy quốc doanh làm chủ đạo, Việt Nam hiện nay vẫn theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và sự cải cách thể chế không có tiến bộ thực sự. Việt Nam đã tụt hậu hàng chục năm so với láng giềng Malaysia hay Thái Lan chứ không dám nói tới Singapore.

Ngày 23/2 tại Hà Nội, Ngân hàng Thế giới và Chính phủ Việt Nam công bố lộ trình phát triển tới năm 2035. Theo đó nếu Việt Nam nghiêm túc cải cách thể chế kinh tế và chính trị theo các khuyến cáo, thì cũng phải 20 năm nữa người Việt Nam mới có mức thu nhập tương đương các nước láng giềng như Malaysia thời điểm 2010. Nói cho rõ nếu cải cách thành công thì 20 năm nữa thu nhập đầu người của Việt Nam mới bằng nước bạn Malaysia của 25 năm trước, lúc đó không biết nước bạn thực tế đã tiến xa hơn đến đâu nữa. Câu chuyện vừa nghiêm túc vừa xót xa.

Chủ tịch Ngân hàng Thế giới đã thắng thắn đề cập là Việt Nam cần phải mạnh mẽ nâng cao năng suất lao động, nâng cao sự sáng tạo hiệu quả và phải phát triển mạnh mẽ năng lực cạnh tranh. Muốn như vậy thì Việt Nam phải cải cách về mặt thể chế.
-TS Lê Đăng Doanh
Trong cuộc phỏng vấn tối ngày 23/2/2016, TS Lê Đăng Doanh thành viên Ủy ban Chính sách Phát triển của Liên Hiệp Quốc đã nhận định về thách thức phải cải cách. Ông nói:

Chủ tịch Ngân hàng Thế giới đã thắng thắn đề cập là Việt Nam cần phải mạnh mẽ nâng cao năng suất lao động, nâng cao sự sáng tạo hiệu quả và phải phát triển mạnh mẽ năng lực cạnh tranh. Muốn như vậy thì Việt Nam phải cải cách về mặt thể chế và nếu như những điều đó được giới lãnh đạo được Đại hội 12 đã bầu ra thực hiện, thì Việt Nam với tiềm năng của mình hoàn toàn có thể đạt được những tiến bộ như đã đề ra. Nếu như công cuộc cải cách không vượt qua được sự cản trở của nhóm lợi ích và không tự mình vượt qua được những ràng buộc mà mình tự buộc mình vào, tự hạn chế mình thì Việt Nam sẽ ngày càng bị tụt hậu xa hơn.

Ngày 24/2/2016 Báo mạng VnExpress trích lời Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước cảnh báo trước quốc hội về nguy cơ bất ổn xã hội do khoảng cách giàu nghèo. Ông Ksor Phước đã góp ý về báo cáo công tác nhiệm kỳ 2011-2016 của Chính phủ và thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trước đó tại Đại hội Đảng 12, ông Nguyễn Quốc Cường Chủ tịch hội Nông dân Việt Nam báo động là khoảng cách giàu nghèo đang cách biệt hơn 10 lần.

Trao đổi với chúng tôi, Giáo sư Tiến sĩ Vũ Văn Hóa cho rằng hiện rất khó để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo ở Việt Nam. Ông nói:

Bây giờ đất đai tập trung vào những người có quyền thế, những người có tài chính. Những chỗ đất đai đẹp nhất ở các thành phố hay ở vùng nông thôn thì lại rơi vào tay những người có tiền, còn người ta có tiền từ nguồn gốc nào thì mình cũng không biết được. Rõ ràng là họ có những tài sản rất lớn, tôi lấy ví dụ ở Hà Nội những nơi đẹp nhất thuộc về những người có nguồn tài chính rất lớn, những cái đó tạo ra thu nhập rất lớn cho họ, bên cạnh họ lại có một bộ máy giúp việc rất đắc lực và như vậy những người khác trở thành những người làm thuê thôi. Xã hội nào cũng có việc đó. Nhưng ở Việt Nam tôi cho rằng mấy năm gần đây sự cách biệt rất nhanh và rất lớn. Cần có nghiên cứu và trả lời cho dân chúng, chứ cứ nói cách biệt giàu nghèo thể hiện rõ ràng, nhưng chưa ai dám phát biểu công khai là nguyên nhân tại đâu mà ra, chưa có cái đó.”

Nguyên nhân cách biệt giàu nghèo ở Việt Nam có lẽ chỉ có Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và chính phủ của ông mới có lời giải đáp, vì ông đã lãnh đạo Chínhnh phủ 10 năm liên tiếp. Tiếc rằng trong 7 điểm hạn chế và yếu kém trong nhiệm kỳ Thủ tướng, được Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình bày trước Quốc hội chiều 24/2/2016, đã không có nội dung nào liên quan tới vấn đề này.

Nam Nguyên, phóng viên RFA
==========
Nguồn: RFA

Friday, February 26, 2016

Dựng lại văn hóa


Đã quá muộn để tiếp tục tự dối trá trước thực tế hiển nhiên về sự phá sản không thể cứu vãn của hệ thống giáo dục XHCN, trong đó giá trị nhân văn không được tôn trọng mà được thay bằng giáo điều chính trị khuôn mẫu. Những gì diễn ra vài năm gần đây mà mức độ ngày càng tệ hại, với sự hỗn loạn xã hội và xuống cấp một cách “có hệ thống”, chính xác là hệ quả tất yếu của một nền giáo dục phi nhân bản. Nó gây ra những cơn tâm chấn rúng động tận lõi hệ thần kinh. Thực tế này khiến buộc phải nhìn lại, và cần phải dẹp bỏ tự ái để thừa nhận, rằng nền giáo dục VNCH là ưu việt hơn nền giáo dục XHCN chứ không phải ngược lại.

Được xây dựng bằng nhiệt huyết tinh thần dân tộc cùng nền triết lý giáo dục lấy chữ “nhân” (nhân bản, nhân vị, nhân tâm…) làm trọng tâm, giáo dục VNCH, với đóng góp của tinh hoa nhân tài ba miền, đã tạo ra nền móng đạo đức và giềng mối xã hội mạnh đến mức, mà đến tận nay, dù bị ảnh hưởng bởi sự ăn mòn từ axít XHCN khiến nham nhở diện mạo đời sống, miền Nam hiện vẫn ráng giữ lại những giá trị nhân bản cốt lõi từng được gieo cấy vào tâm hồn bằng giáo dục, từ giáo dục gia đình, giáo dục học đường đến giáo dục xã hội.

Sức đề kháng của miền Nam có thể thấy ở những sự kiện xảy ra vài năm nay, thể hiện sự khác biệt đối nghịch trong văn hóa ứng xử, văn hóa tín ngưỡng, văn hóa giao tiếp… giữa miền Nam và miền Bắc – hay nói chính xác là giữa một miền Nam còn chịu ảnh hưởng của nền văn hóa VNCH, và một miền Bắc tiếp tục bị tác động bởi thứ văn hóa XHCN vốn từng khép kín trong bầu không khí thiếu oxy của “văn hóa cộng sản” lai tạo bởi Trung Cộng và Liên Xô. Nói rộng hơn, sự kiện Hiệp định Geneve 1954 đã tạo ra hai xã hội với hai lối sống đối nghịch mà đến giờ vẫn có thể thấy sau hơn 60 năm. Vấn đề ở đây, cho nên, không phải là vùng miền, mà là sự khác biệt của hai nền văn hóa, giữa văn hóa khai phóng và văn hóa đóng khuôn.

Nếu vẫn không thừa nhận văn hóa VNCH tốt hơn văn hóa XHCN thì thử đặt câu hỏi tại sao người Bắc hiện vẫn tiếp tục di cư vào Nam chứ chưa bao giờ ngược lại? Miền Nam thu hút không chỉ bởi cơ hội làm ăn mà còn bởi lối sống và văn hóa sống. Nếu vẫn không thừa nhận nền văn hóa tự do tốt hơn văn hóa cộng sản thì có thể giải thích sao về việc một số (đang tăng dần) người Việt, sau nhiều thập niên sống dưới “nền” văn hóa XHCN, lại rất giống dân Hoa lục Trung Cộng, về cách sinh hoạt lẫn lối ứng xử, từ xô bồ đến nhếch nhác, từ cắp vặt đến giết người? Giải thích sao về việc người sống ở miền Bắc, khi vào Nam định cư, buộc phải thay đổi lối sống để thích nghi và hòa nhập với văn hóa xã hội miền Nam? Miền Nam không có “cháo chửi”, kể cả khi quán cháo được bán bởi người Bắc vốn từng sống ở một môi trường quen với quát tháo và xin-cho. Có không ít người miền Bắc di cư vào Nam từ sớm sau thời điểm 1975 nay cảm thấy xấu hổ trước hiện tượng suy đồi văn hóa diễn ra tại chính mảnh đất sinh ra mình. Đó là một thực tế.

Miền Nam trước 1975 không cần có “làng văn hóa” hay “khu du lịch văn hóa”. Bây giờ “khu phố văn hóa” và “xã văn hóa” hiện diện khắp đất nước này, tỉ lệ nghịch với sự xuống cấp không phanh về văn hóa; tương phản với sự vắng mặt những viện bảo tàng lẫn thư viện đẳng cấp quốc gia; tương phản chua chát với cơn sốt xây dựng chùa chiền miếu mạo và “lễ hội văn hóa”; tương phản mỉa mai với số lượng “bằng khen gia đình văn hóa” và các “phong trào thi đua văn hóa”. Trong văn hóa không thể có “thi đua”. Văn hóa là sự bao gồm kiến thức, nghệ thuật, luật pháp, giá trị và chuẩn mực sống được định dạng và thừa nhận qua thời gian, chứ không phải bằng “thi đua” hay được “công nhận” bằng “cơ quan quản lý”. Văn hóa không thể được “quản lý”. Người ta đang nhắc đến cách sống và phong thái lịch sự đầy tinh tế của người Nhật, với sự thèm muốn dữ dội, ở một đất nước nơi mà sách báo khiêu dâm vẫn bán đầy đường. Xây dựng văn hóa là tạo ra một hệ chuẩn được số đông công nhận để từ đó xã hội có thể tự kiểm soát và tự cân bằng, chứ không phải can thiệp bằng “quản lý” và “định hướng văn hóa”.

Văn hóa và nền móng văn hóa chỉ có thể xây dựng từ một nền giáo dục tự do, sáng tạo tự do, và tôn trọng con người tự do. Tri thức là thành tố quan trọng trong văn hóa. Không thể xây dựng văn hóa khi mà trí thức tự do còn bị gạt ra ngoài lề. Miền Nam, nơi sinh sống của người đến từ ba miền như vốn dĩ xưa nay, đang đóng vai trò như cái bản lề níu lại cánh cửa văn hóa chực bong. Tuy nhiên sự sụp đổ đang diễn ra ào ạt, khắp nơi, với tốc độ đáng sợ. Nếu không khôi phục lại những giá trị giáo dục tinh túy từng hiện diện ở miền Nam, chính xác hơn là nếu không từ bỏ hệ thống giáo dục giáo điều, cơn lốc phá sản văn hóa sẽ càn quét không chừa một góc nào trên đất nước này. Muốn dựng lại những gì đang đổ nát, hơn lúc nào hết, phải thay đổi giáo dục và triết lý giáo dục. Người ta có thể chịu đựng một đất nước nghèo về kinh tế nhưng không dân tộc nào có thể dung thứ cho sự phá sản văn hóa bởi sự ngu muội và sợ hãi tự do. ……..

Nhếch nhác lễ hội (ảnh: Tuổi Trẻ, Pháp Luật VN)




======
Nguồn: Fb Manh Kim

Thursday, February 25, 2016

Tìm kim chỉ nam cho cuộc sống qua 19 câu nói của Lão tử


Lão Tử có nói Đạo không còn là Đạo nếu ai đó có thể định nghĩa được. Chẳng ai có thể nói chính xác đó là gì, tùy hoàn cảnh mà người xem tự đắc thêm được ý mới. Chỉ qua 19 câu nói của Lão Tử, bạn sẽ có thể “thấm” được đạo, tìm ra kim chỉ nam cho cuộc sống của mình.

Kim chỉ nam cho cuộc sống
1. Lo thắng người thì loạn, lo thắng mình thì bình.

2. Nếu muốn được tất cả, phải từ bỏ tất cả.

3. Hiểu người là khôn, hiểu được mình mới là khôn thật sự.

4. Nếu biết vạn vật đều thay đổi, thì bản thân không nên cố nắm giữ điều chi.

5. Ai vội vàng tiến lên phía trước đều không thể đi xa.

6. Ai muốn hiển thị mình sẽ tự làm lu mờ bản thân.

7. Ai muốn chứng thực bản thân sẽ không tự biết bản thân mình là ai.

8. Ai muốn ước chế người khác thường không tự ước chế bản thân mình.

9. Không còn sự đối chọi, ma quỷ tự tiêu tan.

10. Nếu biết nhìn vào tâm mình, anh có thể tìm thấy tất cả các câu trả lời.

Lão tử nói
11. Nhu thắng cương, tĩnh thắng động.

12. Hãy để mọi chuyện tùy kỳ tự nhiên.

13. Nếu người muốn co lại, trước hết hãy cho phép nó duỗi ra. Nếu người muốn từ bỏ, hãy cho phép nó nhảy xuất ra. Nếu người muốn có điều gì, trước hết phải cho đi thứ đó.

14. Những khởi đầu tốt đẹp thường được ngụy trang thành một đoạn kết bi thảm.

15. Chú tâm đến sự công nhận của người khác rồi người sẽ trở thành tù nhân của chính họ.

16. Nếu một người có thể nhận ra mình không thiếu thứ gì, cả thiên hạ đã thuộc về người đó.

17. Vô hình vô tướng là niềm an lạc nhất.

18. Bậc trí tuệ là người biết những gì mình không biết.

19. Khi bạn hài lòng đơn giản là chính mình, không so sánh hay cạnh tranh với ai, tất cả mọi người sẽ tôn trọng bạn.

S.T

Thông tin chỉ có tính tham khảo
================
Nguồn: baomoi

Wednesday, February 24, 2016

Không được quên 7 ký hiệu này trên chai nước, bạn sẽ tránh được ung thư


Nếu chưa từng làm điều này trước đây, đã đến lúc bạn phải thay đổi.

Mỗi bao bì nhựa phải có một kí hiệu cho thấy nó được sản xuất từ loại vật liệu nào. Một số loại vật liệu nhựa có tác hại gián tiếp rất lớn tới cơ thể con người. Cụ thể, chúng có thể giải phóng các chất hóa học khác nhau vào nước uống đóng chai. Các bao bì thực phẩm cũng có thể phát hành chất gây ung thư nếu bị sưởi ấm bởi nhiệt. Bạn hãy luôn cảnh giác khi muốn sử dụng hộp xốp để gói thức ăn nóng. Chưa hết, hãy nhìn lại những hộp mỹ phẩm, chúng cũng được làm từ nhựa phải không?

bao bì nhựa
Hãy đi tìm những kí hiệu này trên bao bì nhựa

Về cơ bản, tất cả các bao bì nhựa phải được dán nhãn, với thông tin về vật liệu mà nó được chế tạo. Kí hiệu này thường có hình dạng một tam giác, với số và các chữ cái đi kèm. Vì vậy, khi mua một sản phẩm có bao bì nhựa, điều đầu tiên bạn cần lưu ý là đi tìm kí hiệu này. Dưới đây là ý nghĩa của chúng:

1. PET hoặc PETE

PET là một trong những vật liệu dẻo được sử dụng phổ biến nhất cho sản phẩm tiêu dùng. Nó góp phần làm nên hầu hết các chai đựng nước hoặc đồ uống không cồn. Loại nhựa này cho một thời gian sử dụng nhất định. Sử dụng lâu dài, nó cho phép vi khuẩn bắt đầu xuất hiện và phát triển.

Chai nhựa làm từ vật liệu này đôi khi có thể chứa các kim loại nặng và chất hóa học. Nếu chúng phát hành vào nước uống sẽ ảnh hưởng đến cân bằng nội tiết của con người. Nhựa PET rất khó để khử trùng và vệ sinh. Quá trình làm sạch nó đòi hỏi dây chuyền hóa chất rất độc hại.

2. HDP hoặc HDPE

HDP là một loại nhựa rắn thường được sử dụng để làm bình chứa sữa, chất tẩy rửa, dầu, đồ chơi hay một số bao bì khác. Đây là loại nhựa an toàn, không phát hành hóa chất. Các chuyên gia đều khuyên người tiêu dùng nên mua các sản phẩm được làm từ loại nhựa này. Nó là lựa chọn an toàn nhất dùng để chứa đồ uống sạch.

HDPE
Nhựa HDPE là lựa chọn an toàn nhất để đựng đồ uống 

3. PVC hoặc 3V

Chai đựng dầu ăn, giấy nilon gói thực phẩm, đồ chơi dành cho trẻ em, đồ dùng vật nuôi... thường được làm từ nhựa PVC. Nó là một vật liệu tương đối mềm dẻo và linh hoạt. Mặc dù vậy, nhựa PVC phát hành hai hóa chất độc hại, ảnh hưởng đến nội tiết tố trong cơ thể. Các chuyên gia khuyên bạn nên tìm sản phẩm thay thế nếu đồ vật có kí hiệu này.

4. LDPE

Loại nhựa này không thường được sử dụng để sản xuất chai đựng đồ uống hay bao bì thực phẩm. Có nguy cơ những chất hóa học độc hại sẽ phát hành từ nhựa LDPE vào thực phẩm. Tốt nhất bạn nên tránh sản phẩm sử dụng loại bao bì này.

5. PP

Loại nhựa này khá thông dụng. Nó có thể có màu trắng, trong suốt hoặc được nhuộm. Khả năng trang trí này khiến nó được sử dụng cho các sản phẩm như sữa chua, siro... Bên cạnh đó, nhựa PP rất rắn và có khả năng chịu nhiệt tuyệt vời. Nó không tan chảy ngay cả khi bị làm nóng. Nhựa PP được khai thác để tạo bề mặt chống nấm mốc, hóa chất và dầu mỡ.

hộp nhựa P.S.
Sản phẩm thường được làm từ nhựa P.S.

6. P.S.

Polystyrene là một loại nhựa rẻ tiền. Đó là lí do mà nó xuất hiện phổ biến trong đời sống, nhất là ở các nước đang phát triển. Cốc nhựa, hộp đựng thực phẩm, cán dao, kéo, nĩa... là những nơi bạn sẽ gặp phải loại nhựa này. Coi chừng, loại nhựa này được chứng minh là phát hành chất gây ung thư nếu gặp nhiệt độ cao. Đừng bao giờ đựng thực phẩm hay nước nóng trong đó. Mà tốt nhất bạn nên tránh nó luôn thì hơn.

7. PC hoặc không có nhãn hiệu

Đây là loại vật liệu dẻo nguy hiểm nhất mà bạn gặp phải. Đôi khi nhà sản xuất sẽ chẳng in nhãn hiệu để phô bày điều đó. Loại nhựa này không được chuẩn hóa. Dĩ nhiên nó mang một nguy cơ cao mang hóa chất vào thức ăn, nước uống hay mĩ phẩm bạn tiêu thụ.

Tham khảo Healthtipssource
========
Nguồn: GenK

Tuesday, February 23, 2016

Giá bán lẻ xăng dầu đã hợp lý chưa?


gia-xang-giam

Ngày 18/2/2016, Liên bộ Công Thương - Tài chính vừa có công văn yêu cầu điều chỉnh giá giá xăng dầu trong nước. Theo đó, giá bán lẻ xăng RON 92 giảm 961 đồng/lít xuống mức tối đa 13.752 đồng/lít. Đây là lần giảm giá thứ 6 liên tiếp từ đâu năm đến nay, đưa giá xăng hiện nay ở mức thấp nhất kể từ 10/2009 và thấp gần bằng 1/2 so với giá xăng thời điểm 6/2014. Thông tin này tác động tích cực tới tâm lý người tiêu dùng cả nước, bởi giá xăng có ảnh hưởng tới giá cả tất cả hàng hóa tiêu dùng.

Để biết vì sao giá xăng lại giảm xuống chỉ còn 13750 đ/l thì hãy xem chi tiết cơ cấu giá một lít xăng gồm các khoản mục gì dưới đây: ( http://hiephoixangdau.org/gia-co-so/gia-co-so-hang-ngay/newest-content.html.)


gia-co-so

Tuy nhiên, giá xăng thị trường VN đã thực sự hợp lý hay chưa thì lại là câu chuyện khác.

Nhìn vào cơ cấu tính giá xăng dâu, ta thấy giá CIF tính giá cơ sở là 5.956 đ/l xăng A92 Như vậy một lít xăng cập cảng VN được đưa đến người tiêu dùng đã đội lên 13.752 - 5.956 = 7.796 đ (131%). Mức đội giá này là khá lớn so với các hàng hóa thông thường hiện nay. Mặt khác, xăng dâu là mặt hàng do Nhà nước quản lý điều hành lẽ ra chi phí lưu thông, phân phối phải được kiểm soát theo hướng "vì dân" thay vì theo hướng "tư bản độc quyền" như vậy.

Thử xem có điều gì không hợp lý khiến người tiêu dùng đã phải trả thêm chi phí cao hơn 131% cho mỗi lít xăng.

Đầu tiên thấy ngay, trong 131% chi phí tăng thêm mỗi lit xăng có 1350 đ  là chi phí và lợi nhuận định mức. Bởi là mặt hàng thuộc diện quản lý độc quyền mới có một mức ấn định lợi nhuận và chi phí như vậy. Tuy nhiên đây không phải là quy luật của KT thị trường, nhưng không có nghĩa là cho phép nó tính nó bất di bất dịch. Nên chăng nó tính theo tỷ lệ trên giá thành thì đúng bản chất hơn. Vd, thời điểm xăng 2600 đ/l thì chí phí + lợi nhuân khoảng 1300 tương đương 5%; khi giá xăng thị trường giảm thì khoản định mức cũng giảm tương ứng. như vậy, tỷ suất lợi nhuận vẫn đảm bảo, mà quyền lợi người tiêu dùng cũng không bị thiệt.

Phần còn lại (7796 - 1350 = 6.646đ) là thuế và trích bình ổn giá. Trong đó, thuế bảo vệ môi trường ấn định 3000 đ/lit, không hiểu mức thuế cố định này được tính toán dựa trên tiêu chí nào. Tuy nhiên, nếu suy nghĩ theo hướng là cần chi phí 3000 đ để khắc phục tác hại một lit xăng gây ra cho môi trường thì chắc là chủ quan, vô lý. Bản có nghĩ rằng bạn đổ 3lit xăng vào xe máy và chạy một vòng trong thành phố có nghĩa là bạn đã bắt Nhà nước phải bỏ ra 9000 đồng khắc phục môi trường không?. Nếu không, thì chính người tiêu dùng là người đang trả phí cho một sự chủ quan vô lý này khi mua xăng.

Còn về quỹ bình ổn giá. Theo đó, khoản định mức bình ổn giá tính cho mỗi lit xăng nhập khẩu là 300 đ. Nghe thì có vẻ hợp lý cho công tác quản lý và điều tiết thị trường. Nhưng cơ chế thị trường và một nền kinh tế nhỏ bé như VN thì nếu có sự "chèn ép" "bao vây" từ các tổ chức, tập đoàn, định chế ... để lũng đoạn giá xăng thì CP sẽ giữ được bao lâu và mức thu 300 đ/l liệu có đủ không!?. Hãy nhìn vào ca-phê, cao-su hay các mặt hàng nông sản xuất bán TQ, sao không đặt vấn đề bình ổn giá cho ông dân khỏi bị chèn ép đi!?. Thật sự đây là vấn đề hệ trọng hơn nhiều với quỹ bình ổn giá xăng. Vì vậy thu 300 đ/l xăng để bình ổn giá thì khi cần chẳng thấm vào đâu, nhưng hiện tại lại là gánh nặng cho chi phí người tiêu dùng.

Bởi vậy, có ý kiến chuyên gia cho rằng thời điểm hiện tại, nếu tính toán hợp lý thì giá xăng A92 ở VN chỉ vào khoảng 7.000 đ/l là hoàn toàn có cơ sở. Khi người tiêu dùng được hưởng lợi từ những chính sách kinh tế thì cũng đồng nghĩa cả nền kinh tế được hưởng lợi và phát triển.

2/2016
# Hình minh họa từ dantri

Monday, February 22, 2016

Văn hóa Việt Nam xuống cấp trầm trọng: Nguyên nhân và giải pháp


Tết là dịp diễn ra nhiều lễ hội văn hóa và các sinh hoạt cộng đồng, cũng là lúc trỗi dậy những điệp khúc buồn quen thuộc về sự xuống cấp của văn hóa Việt Nam, với các lễ hội tranh giành hỗn loạn, tình trạng ẩu đả, cướp giựt gia tăng.

hinh reuters
Hình minh họa
Văn hóa Việt Nam bị cho là đã xuống cấp trầm trọng, nhưng xuống cấp từ khi nào và làm cách nào để thay đổi?

Có người nhận xét rằng dường như cách hành xử cướp đoạt và tư duy chụp giựt đang ăn sâu vào thói quen, tiềm thức của mọi người, bất kể giàu-nghèo, và đang diễn ra trong mọi góc cạnh đời sống người Việt ngày nay, từ bệnh viện, trường học, chùa chiền, đến những nơi vui chơi ăn uống sang trọng.

Đạo đức, văn hóa ứng xử ngày càng tuột dốc tệ hại vì dân trí thấp, vì thiếu giáo dục văn hóa, hay vì môi trường sống xô đẩy?

Mời các bạn cùng Tạp chí Thanh Niên hôm nay tìm hiểu qua cuộc trao đổi với Tiến sĩ Nguyễn Nhã, nhà sử học, nhà sư phạm, và cũng là một nhà nghiên cứu văn hóa-truyền thống Việt Nam, sáng lập viên Qũy Văn hóa Giáo dục Hãn nguyên Nguyễn Nhã.

TS Nhã: Hiện giờ văn hóa đang xuống cấp do nhiều nguyên nhân. Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất chính là giáo dục làm người không được tôn trọng, không được quan tâm. Giáo dục bây giờ chỉ lấy bằng thôi.

Trà Mi: Nhiều người cho rằng dân trí thấp và môi trường sống cũng là nguyên nhân của nền văn hóa tuột dốc. Ý kiến của ông thế nào?

TS Nhã: Nếu do dân trí, phải nói nông thôn của mình hồi xưa trước 1945 dân trí đâu có cao, hầu hết là mù chữ. Nhưng người nông dân Việt Nam thời đó rất đàng hoàng. Ví như mẹ tôi dù mù chữ nhưng đã dạy cho tôi rất nhiều điều, khác với bây giờ. Đấy cũng cho thấy văn hóa sống trong gia đình, làng xóm, xã hội đã thay đổi. Sự thay đổi đó cho thấy cái hay mình lại bỏ đi, mất đi rất nhiều trong khi cái dở lại sinh ra nhiều.

Nông thôn của mình hồi xưa trước 1945 dân trí đâu có cao, hầu hết là mù chữ. Nhưng người nông dân Việt Nam thời đó rất đàng hoàng. Ví như mẹ tôi dù mù chữ nhưng đã dạy cho tôi rất nhiều điều, khác với bây giờ. Đấy cũng cho thấy văn hóa sống trong gia đình, làng xóm, xã hội đã thay đổi. Sự thay đổi đó cho thấy cái hay mình lại bỏ đi, mất đi rất nhiều trong khi cái dở lại sinh ra nhiều
Tiến sĩ Nguyễn Nhã, nhà nghiên cứu văn hóa-truyền thống Việt Nam, nói.
Trà Mi: Một sự thay đổi dẫn tới cái hay bị mất đi nhiều và cái dở lại sinh ra nhiều, phải chăng đây là một sự thay đổi tiêu cực?

TS Nhã: Vâng, đúng như vậy. Lối sống mới, giới trẻ vọng ngoại, ít theo và coi thường những cái gì truyền thống. Đó là cái dở nhất. Những người sống trong thời chiến hồi xưa, kể cả ở miền Bắc, dù nghèo khó lắm nhưng tinh thần không như bây giờ. Hiện giờ bị mất phương hướng từ trên xuống dưới, mọi sự bắt đầu từ văn hóa giáo dục.

Trà Mi: Về yếu tố môi trường sống, ông nghĩ sao? Có người cho rằng nâng cao giáo dục văn hóa mà môi trường sống xung quanh không được cải thiện cũng thế thôi. Sống giữa những bon chen, chà đạp, chụp giựt, mình có giáo dục văn hóa tới đâu cũng khó có thể giữ mình. Phải chăng yếu tố môi trường sống cũng có ảnh hưởng rất mạnh đối với văn hóa?

TS Nhã: Vâng, đa số thiếu giáo dục mà tăng nhiều thì làm ảnh hưởng tới môi trường sống. Đạo đức đang xuống cấp, nhưng tôi tin rồi sẽ có lúc phục dựng hoặc phát triển lại vì đó là quy luật của lịch sử.

Trà Mi: Tiến sĩ nhìn thấy sự phục hưng sớm muộn ra sao?

TS Nhã: Khó có thể nói được tương lai ra sao. Nếu những nhà giáo dục họ bình tĩnh, không bó tay như hiện nay thì mọi chuyện sẽ khác.

Trà Mi: Một nền văn hóa và một xã hội ‘mất phương hướng’ trở nên hỗn độn và thui chột. Lỗi này do đâu?

TS Nhã: Có người nói đây là ‘lỗi của hệ thống.’ Dĩ nhiên, bất cứ thời kỳ nào trong lịch sử Việt Nam thì chính quyền cũng có vai trò quan trọng. Nhưng, theo tôi, mỗi người dân đều có trách nhiệm. Từ già tới trẻ đều có trách nhiệm thì mọi chuyện sẽ khác đi, nhưng bây giờ người ta không quan tâm điều đó.

Lối sống mới, giới trẻ vọng ngoại, ít theo và coi thường những cái gì truyền thống. Đó là cái dở nhất. Những người sống trong thời chiến hồi xưa, kể cả ở miền Bắc, dù nghèo khó lắm nhưng tinh thần không như bây giờ. Hiện giờ bị mất phương hướng từ trên xuống dưới, mọi sự bắt đầu từ văn hóa giáo dục.
Tiến sĩ Nguyễn Nhã nhận xét.
Trà Mi: Có thắc mắc rằng những thời trước không thấy tệ như vậy, phải chăng thời đại xã hội chủ nghĩa đã tạo ra những đặc điểm như thế cho người Việt ngày nay?

TS Nhã: Không thể nói chủ nghĩa nọ chủ nghĩa kia có trách nhiệm. Nhà cầm quyền phải có trách nhiệm, tất cả các giới phải có trách nhiệm, mà giờ thì cảm thấy người ta không có trách nhiệm. Đó, căn gốc nằm ở ‘hệ thống’. Từ cá nhân cho tới cộng đồng, mọi người đều cảm thấy không phải trách nhiệm của mình.

Trà Mi: Người ta lập luận rằng trong một xã hội mà sự cướp đoạt lên ngôi cộng với sự mất niềm tin vào luật pháp thì mọi người phải tranh giành chụp giựt, đạp lên nhau để tồn tại, nếu không, sẽ bị thua thiệt. Nếu xã hội không tạo ra hoàn cảnh như thế, nếu thời đại không đưa ra những khốn khó như thế thì chắc con người sẽ tốt đẹp hơn, cư xử tử tế hơn?

TS Nhã: Tôi nghĩ vậy. Mỗi thời một khác, nhưng những căn bản để mà giữ thì hiện nay mình đã mất cả, mất căn bản của truyền thống.

Trà Mi: Điều này xuất phát điểm từ đâu, từ bao giờ trong xã hội Việt Nam?

TS Nhã: Thời đổi mới, thời chiến tranh và thời nay hoàn toàn khác. Thời chiến tranh người ta tập trung vào vấn đề đấu tranh, hy sinh. Còn bây giờ người ta lo hưởng thụ thôi mà. Về mặt đạo đức, con người thời chiến tranh và thời nay khác nhau nhiều lắm, cả miền Nam lẫn miền Bắc.

Trà Mi: Giải pháp nào cho thực trạng văn hóa hiện nay?

TS Nhã: Chính quyền, người có chức có quyền, những người có trách nhiệm phải làm gương trước tiên. Theo tôi, khi mọi việc đến tận cùng thì phải biến chuyển thôi.

Trà Mi: Nhưng liệu có nên chờ mọi việc tự biến chuyển khi đến tận cùng hay không?


Không thể nói chủ nghĩa nọ chủ nghĩa kia có trách nhiệm. Nhà cầm quyền phải có trách nhiệm, tất cả các giới phải có trách nhiệm, mà giờ thì cảm thấy người ta không có trách nhiệm. Đó, căn gốc nằm ở ‘hệ thống’. Từ cá nhân cho tới cộng đồng, mọi người đều cảm thấy không phải trách nhiệm của mình.
Tiến sĩ Nhã nói.
TS Nhã: Vấn đề hiện nay là giáo dục. Nếu nhà nước và tất cả các giới quan tâm đến giáo dục thì sẽ khác.

Trà Mi: Những người quản lý đổ lỗi rằng đây là hệ quả của kinh tế thị trường…

TS Nhã: Hiện nay hầu hết các nước đều kinh tế thị trường nhưng họ như thế nào thì mọi người biết rồi.

Trà Mi: Theo ông, giáo dục phải cải thiện, nhưng cụ thể phải cải thiện thế nào? Môi trường sư phạm Việt Nam hiện có giáo dục ý thức công dân từ cấp tiểu học lên tới đại học, theo ông, vì sao không hiệu quả?

TS Nhã: Tôi từng lo giáo dục nhiều thời, tôi biết mà. Hiện nay người ta quan tâm đến điểm số, thành tích thi đua, không thực chất. Bây giờ chỉ cần 2 điều. Một là không được nói dối, bởi vì gian dối thì chất lượng không cao. Bây giờ giáo dục phải làm sao không được nói dối nữa. Thứ hai, phải cư xử với nhau cho tử tế. Chỉ cần thay đổi hai điều đó thôi, mà tôi đã nói với rất nhiều người, ai cũng bảo là khó quá. Bây giờ nếu mình có một hệ thống chính trị rất minh bạch, trung thực thì chất lượng sẽ cao thôi. Lỗi hệ thống!

Trà Mi: Xin chân thành cảm ơn tiến sĩ Nguyễn Nhã đã dành cho Tạp chí Thanh niên VOA cuộc trao đổi hôm nay.

===============
Nguồn: VOA

Sunday, February 21, 2016

Vẻ đẹp thiếu nữ Việt xưa trong các bức họa nổi tiếng


Dưới nét cọ của nhiều danh họa, phụ nữ Việt đầu thế kỷ 20 mang vẻ đẹp kín đáo, thanh lịch, tao nhã.

tranh mai trung thứ
Bức "Chuyện trò" là một tác phẩm nổi bật của Mai Trung Thứ.

Tranh nguyễn tường lân
Tranh "Đôi bạn" của Nguyễn Tường Lân

Tranh nguyễn Tiến chung
Sơn mài "Hai thiếu nữ đi trên đồng lúa" của Nguyễn Tiến Chung hoàn thành năm 1943. Tác phẩm vẽ thiếu nữ với tà áo dài bay trên cánh đồng, thể hiện niềm vui, lạc quan, yêu đời

Tranh Trân văn Cẩn
"Hai thiếu nữ trước bình phong" (1944) là tranh lụa nổi tiếng của Trần Văn Cẩn. Tác phẩm họa vẻ đẹp của thiếu nữ quyền quý ở Hà Nội đầu thế kỷ 20.

Tranh Tô Ngọc Vân
Tranh "Hai thiếu nữ và em bé" của Tô Ngọc Vân được hoàn thành năm 1944. Tác phẩm vẽ một không gian thanh bình, hai phụ nữ mặc áo dài hàn huyên bên hiên nhà. Bên cạnh họ là bé trai ngồi chơi. Tranh có bố cục của hội họa phương Tây nhưng không gian và trang phục nhân vật nữ gợi không khí Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tác phẩm có chất liệu sơn dầu trên toan, được xếp vào hạng bảo vật quốc gia.

Tranh Dương Bích Liên
Bức "Thiếu nữ bên hoa cúc trắng" của Dương Bích Liên họa vẻ đẹp cô gái với đôi mắt mở to, trong sáng. Họa sĩ đã khắc họa chiều sâu nội tâm nhân vật qua đôi mắt. Những bông cúc trắng và không gian làm toát lên vẻ đẹp dịu nhẹ, kín đáo của người đẹp trong tranh.

Tranh họa sĩ Tô Ngọc Vân
"Thiếu nữ bên hoa huệ" là bức tranh đi liền với tên tuổi danh họa Tô Ngọc Vân. Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu của mỹ thuật Việt Nam. Tranh thể hiện chân dung thiếu nữ mặc áo dài trắng nghiêng mình về phía bình huệ tây trắng (hoa loa kèn). Hình dáng cô gái cùng không gian toát lên nét dung dị, buồn vương nhẹ nhàng. Bên cạnh giá trị nghệ thuật, tranh thể hiện thú chơi hoa loa kèn tao nhã của người Hà Nội.

Tranh Nguyễn Gia Trí
"Thiếu nữ bên hoa phù dung" là tranh sơn mài hoàn thành năm 1944 của Nguyễn Gia Trí. Tác phẩm thể hiện vẻ đẹp thiếu nữ như hiện thân của khát vọng tự do, mộng mơ. Tác giả dùng chất liệu của sơn mài truyền thống như then, son, vàng quỳ, bạc quỳ cùng vỏ trứng tạo nên những sắc vàng óng ánh, đen thăm thẳm chảy tràn trên tranh.

thiếu nữ bên sen của họa sĩ tô ngọc vân
"Thiếu nữ bên sen" được họa sĩ Tô Ngọc Vân vẽ năm 1944. Người mẫu cho bức tranh là cô Sáu - một người làm mẫu tranh nổi tiếng tại Hà Nội những năm 1940. Cô từng xuất hiện trong tranh nhiều họa sĩ nổi tiếng như: Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Lương Xuân Nhị.

Tranh Lê Phổ
Tranh lụa "Thiếu nữ dâng trà" của Lê Phổ vẽ cô gái trong tà áo dài, tái hiện giai đoạn lịch sử Việt Nam những năm 1930 - 1945. Thiếu phụ trẻ đẹp đang thể hiện cách pha trà tinh tế. Nàng ngồi với dáng vẻ an nhàn, thanh nhã, tay cầm bình trà rót cẩn thận vào từng tách cho bằng nhau. Năm 2013, bức tranh được nhà bán đấu giá nghệ thuật Sotheby's mang đấu giá với mức 1,1 - 1,6 triệu HKD (khoảng 3,1 - 4,5 tỷ đồng).

tranh họa sĩ Trần Văn Cẩn
Bức họa sơn dầu "Thiếu nữ đọc sách" của Trần Văn Cẩn.

Tranh họa sĩ Mai Trung Thứ
"Người phụ nữ nhìn qua ban công" - tác phẩm của Mai Trung Thứ vẽ năm 1940, từng được bán đấu giá với mức 600.000 HKD (hơn 1,7 tỷ đồng)

================
Nguồn: baonghean

Friday, February 19, 2016

Quá độ hữu hạn & Ngộ nhận vô hạn


“Đừng tin những gì bạn nghe và chỉ tin một nửa những gì bạn thấy” (Benjamin Franklin)

“Quá độ” hoặc “chuyển đổi” (transition) là khái niệm thay đổi tuần tự, từ một hệ thống này sang một hệ thống khác. Hầu hết các quốc gia (hay doanh nghiệp) chuyển đổi đều phải trải qua quá trình này. Đó là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển, nhưng cũng đầy ngộ nhận, có thể dẫn đến sai lầm và tổn thất, nếu cực đoan và duy ý chí, không chịu nghiên cứu để làm theo quy luật.

“Ngộ nhận” (misconception/misperception) là trạng thái hồ đồ, nhầm lẫn trong tư duy, dẫn đến hành động sai. Tại sao phải bàn về ngộ nhận? Bởi vì người Việt ngộ nhận quá nhiều và quá dễ. Câu chuyện về hơn 300 sinh viên Việt Nam tại Australia bị một cô gái trẻ trên facebook lừa gần 400.000 AUD vì mua vé máy bay giá rẻ trong dịp Tết vừa qua, đáng để suy nghĩ. Phải chăng người Việt hay ngộ nhận nên dễ bị lừa. Ngộ nhận như cái bẫy mà nhiều người hay mắc phải, dù phải trả giá nhưng vẫn tiếp tục ngộ nhận, như một căn bệnh tâm thần mãn tính khó chữa. Tại sao khó chữa? Bởi vì ngộ nhận như cái bẫy ảo nằm trong tâm thức của ta (state of mind). Có lẽ không ai gài bẫy cả, mà chính ta tự gài bẫy mình.

Làm thế nào để tránh? Nó không giống như lái xe tránh cái ổ gà hay cái hố tử thần trên đường. Ngộ nhận ẩn tàng trong tâm thức như một bản năng khó thay đổi, như những góc mù che khuất tầm nhìn, làm ta vô minh, lú lẫn (dù có tài giỏi đến mấy). Vì vậy, muốn tránh ngộ nhận, phải giác ngộ. Nói theo nhà Phật là phải vô chấp, vô ngã, để không vô minh. Hãy điểm qua vài ví dụ điển hình.

Ngộ nhận & chuyển đổi

Sau chiến tranh (1975), Việt Nam phải chuyển đổi từ thời chiến sang thời bình, từ hai miền khác nhau về chế độ chính trị thành một đất nước thống nhất. Nó đòi hỏi năng lực quản trị chuyển đổi đầy khó khăn trong giai đoạn hậu chiến. Người Đức đã làm rất tốt, nhưng người Việt đã làm rất tồi. “Bên thắng cuộc” đã say sưa với chiến thắng nên ngộ nhận rằng đã thắng được Mỹ thì có thể làm bất cứ chuyện gì, rằng xây dựng kinh tế không khó bằng chiến tranh, nên ai làm cũng được. Họ không hiểu rằng đó là hai chuyện khác nhau, phải đổi mới tư duy và hành động, với tầm nhìn mới.

Đáng nhẽ cả hai bên (thắng cuộc và thua cuộc) đều phải “học tập cải tạo” một cách nghiêm túc để hòa giải và bắt tay với nhau để tái thiết đất nước. Nhưng đáng tiếc là cực đoan và hận thù đã xô đẩy cả hai phía Việt Nam tiếp tục cuộc chiến không đáng có, trong khi kẻ thù truyền kiếp lợi dụng thời cơ chiếm mất Hoàng Sa và dùng Khmer Đỏ gây ra xung đột mới. Đơn giản vì Trung Quốc không muốn một nước Việt Nam thống nhất và hùng mạnh, tuột khỏi vòng tay bá quyền của họ.

Thất bại về bình thường hóa với Mỹ năm 1978 (trong gang tấc) là một thất bại về tầm nhìn và tư duy chiến lược thời hậu chiến, dẫn đến hệ quả khôn lường. Việt Nam lại rơi vào vòng xoáy chiến tranh, mắc kẹt vào quá trình phân cực và xung đột của tam giác Mỹ-Trung-Xô, do ngộ nhận về bạn thù và ưu tiên chiến lược. Đó là một trường hợp xử lý “sai một ly đi một dậm”. Thống nhất đất nước là tất yếu, nhưng quản trị việc hội nhập hai miền thế nào mới là hệ trọng. Cực đoan và duy ý chí, với cái đầu nóng, nhưng thiếu năng lực quản trị, có thể phung phí cơ hội hội hiếm có và nguồn lực khổng lồ của đất nước. Kết cục hôm nay là hệ quả hôm qua. Lịch sử có thể lặp lại với những sai lầm mới, nếu vẫn ngộ nhận.

Trong bối cảnh hiện nay (sau Đại hội Đảng và trước khi Mỹ có Tổng thống mới) không nên ngộ nhận trông chờ quá nhiều vào Sunnylands Summit (15-16/2/2016) hay chuyến thăm của Tổng thống Obama (5/2016). Nhưng cũng đừng coi nhẹ sự kiện Trung Quốc đưa tên lửa HQ-9 ra đảo Phú Lâm (Hoàng Sa). Các sự kiện này đều liên quan đến nhau, và cùng một bàn cờ đang chuyển động, trong đó Trung-Mỹ là hai đối thủ chính, còn Việt Nam và ASEAN là các bên liên quan đến tranh chấp, nhưng lại bất lực. Không phải chỉ vì Mỹ vẫn “ngập ngừng”, mà còn vì Việt Nam và ASEAN không đủ mạnh và đoàn kết. Trong khi cơ chế an ninh ARF trở nên lạc hậu, thì AEC (Cộng đồng Kinh tế ASEAN) vẫn còn quá mới.

Từ quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội…

Chúng ta đã nghe câu chuyện “quá độ đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội” từ rất lâu rồi, từ ngày còn cắp sách đi học. Lúc đó mọi người hiểu một cách mơ hồ về câu chuyện quá độ như một huyền thoại và nhắm mắt tin theo (vì chẳng ai phản biện). Rồi câu chuyện ngày càng khó hiểu hơn với những khái niệm tù mù như “bước đi ban đầu của thời kỳ ban đầu của giai đoan quá độ…”. Lúc đó chắc bộ trưởng Bùi Quang Vinh còn quàng khăn đỏ, nên chưa thể nói được rằng “làm gì có cái thứ đó mà đi tìm…”

Nói như vậy để thấy quá trình giác ngộ để “vượt qua ngộ nhận” về một khái niệm đơn giản nó phức tạp đến thế nào. Tôi nhớ cách đây hơn một thập kỷ, giáo sư Nhật Kenichi Ono (Viện Grips) đã có một nhận xét thú vị, “Lần đầu tiên đến Việt Nam, tôi rất ấn tượng thấy các bạn Việt Nam say sưa tranh luận về những vấn đề hệ trọng của đất nước. Năm năm sau trở lại Việt Nam, tôi vẫn thấy các bạn say sưa tranh luận về những vấn đề hệ trọng đó…” Có lẽ đến bây giờ chúng ta vẫn còn say sưa tranh luận về những vấn đề đó. Chỉ có khác là các chuyên gia kinh tế nay gọi điều đó là “chém gió”… Một chuyên gia nước ngoài khác (tôi không nhớ tên) có một nhận xét dí dỏm (mà chị Phạm Chi Lan hay trích dẫn) là Việt Nam thuộc loại nước “không chịu phát triển”. Quá độ thì hữu hạn, nhưng ngộ nhận thật vô hạn.

…Đến định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa.

Sau những cố gắng đổi mới tư duy kinh tế, câu chuyện “quá độ” đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội (bị thất bại) đã được thay thế bằng câu chuyện “chuyển đổi” sang kinh tế thị trường (tức Chủ nghĩa Tư bản). Đó là một bước tiến dài để chuyển đổi tư duy kinh tế, tuy mất đứt mấy thập kỷ, nhưng ta vẫn kiên trì “Định hướng Xã hội Chủ nghĩa”. Kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa là một “sáng tạo độc đáo” không giống ai. Các nhà kinh tế (kể cả được giải Nobel) cũng chẳng hiểu nổi mô hình này là cái gì. Tại Đại hội Đảng XII, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh (sắp nghỉ hưu) đã kêu gọi “thay đổi thể chế đồng bộ”, và cách đây mấy ngày, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (cũng sắp nghỉ hưu) có một bài dài kêu gọi “thay đổi thể chế”. Nhưng nghị quyết Đại hội Đảng XII vẫn kiên trì “định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”.

Trong vòng xoáy khủng hoảng, hàng trăm ngàn doanh nghiệp đã bị phá sản và chết lâm sàng, do ngộ nhận về kinh tế thị trường và mắc kẹt vào định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nay tham gia sân chơi WTO và TPP, nhưng doanh nghiệp Việt nam vẫn mơ hồ về hội nhập, ngộ nhận một cách “vô hạn” về một khái niệm chuyển đổi “hữu hạn”, biến câu chuyện đơn giản thành nan giải, với cái giá phải trả “vô hạn”. Sự ngộ nhận đó đã dẫn đến hệ quả tai hại, làm Việt Nam tụt hậu vài thập kỷ so với các nước láng giềng, trong khi nước láng giềng khổng lồ phương Bắc đang muốn chúng ta trở lại thời “Bắc thuộc”.

Nhưng điều trớ trêu là chính ông bạn khổng Trung Quốc cũng đang mắc kẹt vào cái bẫy chuyển đổi do ngộ nhận, và đang đứng trước nguy cơ đổ vỡ của thể chế chính trị độc đảng đã lỗi thời, mà chính lãnh đạo cao nhất của họ (Tập Cận Bình và Vương Kỳ Sơn) đã phải công khai thừa nhận. Tại sao chúng ta vẫn kiên trì ngộ nhận theo đuổi mô hình đó và đi theo đường mòn đó, trong khi chính họ cũng đang tìm cách “thoát Trung”. Lựa chọn chính sách này dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nào?

Theo báo Đại Kỷ Nguyên (16/2/2016) và Tạp chí Tranh Minh (Hong Kong), tại Hội nghị TƯ 2 của Đảng CSTQ (29/10/2015) , Tập Cận Bình đã cảnh báo về “6 nguy cơ lớn của Đảng” và nhấn mạnh, “cần dũng cảm đối diện sự thực, thừa nhận việc Đảng thoái hóa biến chất và đang đứng trước nguy cơ mất Đảng”. Vương Kỳ Sơn (bí thư Ủy ban Kỷ luật TW) cũng công khai thừa nhận (tại cuộc họp thứ 52 của UBKLTW) “đang xuất hiện vấn đề lớn” trong thể chế không thể chữa được, khiến Đảng đi vào đường cùng của sự sụp đổ, “Đấy là sự thực, không phải việc ai đó có chịu thừa nhận hay không”. Theo Ban Tổ chức Trung Ương TQ (tính đến 25/7/2015) đã có 209.920.000 người tuyên bố bỏ Đảng và các tổ chức chính trị của Đảng (như Đoàn Thanh niên Cộng sản).

Chuyển đổi bị mắc kẹt

Giáo sư người Mỹ gốc Hoa Minxin Pei (Bùi Mẫn Hân) đã nghiên cứu mô hình phát triển của Trung Quốc và đưa ra lý thuyết cho rằng “Trung Quốc đã bị mắc kẹt trong quá trình chuyển đổi do những cải cách kinh tế và chính trị nửa vời”. Minxin Pei kết luận rằng vì Đảng Cộng sản phải kiểm soát nền kinh tế để tồn tại về chính trị, nên chủ thuyết quá độ tiệm tiến (gradualism) cuối cùng sẽ thất bại” (Minxin Pei, “China’s Trapped Transition: The Limits of Development Autocracy”, Harvard University Press, 2006).

Theo Minxin Pei, để duy trì chế độ chính trị, Tập Cận Bình đang áp dụng chính sách cai trị bằng sợ hãi (rule of fear), nhằm thâu tóm quyền lực dưới chiêu bài chống tham nhũng, làm xã hội Trung Quốc chìm trong không khí khủng bố như thời Cách mạng Văn hóa. (Minxin Pei, “China’s Rule of Fear”, Project Syndicate, February 8, 2016). Một hệ quả cụ thể của chiến dịch đả hổ là Lệnh Hoàn Thành (em trai Lệnh Kế Hoạch) đã chạy sang Mỹ tị nạn, đem theo nhiều bí mật quốc gia, như một “quả bom nổ chậm” có sức công phá không kém gì vụ Vương Lập Quân chạy vào Tổng Lãnh sự quán Mỹ tại Thành Đô (2/2012). Theo các nhà kinh tế, không phải chỉ có quả bom nổ chậm về chính trị, mà bong bóng kinh tế (đặc biệt là bong bóng bất động sản) là một quả bom nổ chậm hàng ngàn vạn tấn đang chờ kích hoạt. Vạn lý Trường thành cũng không thể ngăn được dòng người (và vốn) tháo chạy ồ ạt (như bỏ phiếu bằng chân).

Quyền lực cũng bị mắc kẹt

Khi Nguyễn Bá Thanh chuyển từ Đà Nẵng ra Hà Nội để làm Trưởng Ban Nội chính (đầy quyền lực) có thể ông ấy quá tự tin và ngộ nhận về trò chơi quyền lực mới, vì chống tham nhũng nguy hiểm như săn hổ dữ. Nguyễn Bá Thanh có thể làm mưa làm gió tại Đà Nẵng (như lãnh chúa), nhưng ra Hà Nội ông ấy có thể bị vô hiệu hóa và mắc kẹt vào một cơ chế quyền lực khác mà ông ấy không làm chủ. Thuyên chuyển quyền lực (power transition) là một việc không đơn giản. Nguyễn Bá Thanh đã hấp tấp tuyên bố “hốt liền” trong khi chưa chuẩn bị các điều kiện cần và đủ (về luật chơi và người chơi). Tập Cận Bình đã đưa Vương Kỳ Sơn vào ghế thường trực BCT trước khi bổ nhiệm ông này làm bí thư Ủy ban Kỷ luật Trung ương. So với Nguyễn Bá Thanh, Vương Kỳ Sơn chuyên nghiệp hơn nhiều, cả về con người lẫn bộ máy quyền lực.

Không biết Đinh La Thăng có học được bài học quá đắt của Nguyễn Bá Thanh để tránh cái bẫy ngộ nhận hay không, mặc dù cái ghế Bí Thư thành phố HCM không nguy hiểm bằng cái ghế Trưởng ban Nội chính. Nhưng dù sao, đặc điểm cơ chế quyền lực (nổi và chìm) tại Sài Gòn cũng khác Hà Nội. So với Hoàng Trung Hải, nhiệm vụ của Đinh La Thăng khó khăn phức tạp hơn nhiều, như một con dao hai lưỡi, rất dễ mắc kẹt vào cái bẫy chuyển đổi quyền lực (trapped transition).

Sở hữu toàn dân

Một ngộ nhận lớn khác là quyền “sở hữu toàn dân” (đặc biệt là về tài nguyên ruộng đất). Khái niệm tù mù về quyền sở hữu toàn dân nghe có vẻ hợp đạo lý Xã Hội Chủ Nghĩa, nhưng thực ra đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhóm lợi ích thân hữu thao túng và chiếm đoạt của công biến thành của tư, làm cho mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt. Những cải cách nửa vời về sở hữu ruộng đất đã làm cho xã hội bị mắc kẹt trong một cái bẫy nguy hiểm, như một quả bom nổ chậm chưa được tháo ngòi.

Sở hữu toàn dân là nguồn gốc làm cản trở sự phát triển của đất nước qua nhiều thập kỷ, dưới mức tiềm năng, làm cho Việt Nam ngày càng tụt hậu so với các nước láng giềng. Nếu không đổi mới về thể chế kinh tế và chính trị, nếu không cải cách triệt để về quyền sở hữu ruộng đất, thì không thể hóa giải được mâu thuẫn xã hội, và Việt Nam không thể phát triển bền vững. Càng yếu kém và lệ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và chính trị, thì Việt Nam càng khó giữ độc lập và chủ quyền.

Chính sách mị dân

Nhân dân là một danh từ được các nhà chính trị (của mọi thời đại) nhắc đến nhiều nhất để mị dân (dù họ có phải dân túy hay không), với những khẩu hiệu nghe sướng tai như “Chính phủ Của dân, Do dân, Vì dân” (Abraham Lincoln), mà người Việt hay nhắc đến (như của chính mình). Trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ (Thomas Jefferson) mà cụ Hồ đã trích dẫn trong Tuyên Ngôn Độc lập của ta, cũng nhấn mạnh dân quyền, “Mọi người sinh ra đều bình đẳng” (All men are created equal…).

Tại Việt nam, danh từ nhân dân được sử dụng một cách “lạm phát”, với nhiều vận dụng độc đáo như “quân đội nhân dân”, “công an nhân dân”, “ủy ban nhân dân”, “hội dồng nhân dân”, tòa án nhân dân”, … Cái gì cũng “nhân dân” (chỉ có một ngoại lệ là “ngân hàng nhà nước”). Những người cầm quyền ở Việt Nam luôn chú ý đến “dân vận”, thường xuyên vận dụng các cụm từ mị dân như, “lấy dân làm gốc”, “trung với nước hiếu với dân”, “uống nước nhớ nguồn”… nhất là khi phải huy động sức dân cho chiến tranh, hay đóng góp tài chính… Nhưng khi dân phản đối về một vấn đề gì đó (như Trung Quốc) họ thường bị trấn áp như “thế lực thù địch” hay “phản động”. Như vậy thì làm sao “thoát Trung”?

Khủng hoảng lòng tin

Ngay từ thời “cải cách ruộng đất”, nhiều người có công với cách mạng đã bị đấu tố và xử tử oan sai, do ngộ nhận và cuồng tín. Bây giờ mấy từ “dân oan” hay “khiếu kiện” đã trở thành những từ khóa được nhắc đến nhiều nhất. Chính quyền ngày càng xa dân, đối xử bất minh với dân, lời nói không đi đôi với việc làm, nên những khẩu hiệu mị dân trở nên vô nghĩa và phản cảm (như loa phường). Chính quyền ngày càng mất lòng dân, nên phải đối phó và nói dối. Lòng tin một khi đã mất rất khó lấy lại. Không phải chỉ có bên Trung Quốc mà ngay tại Việt Nam, nhiều đảng viên trung kiên đang bỏ đảng.

Ngộ nhận là một tai họa, có thể kéo dài quá trình chuyển đổi, thậm chí tụt hậu. Chuyển đổi là vấn đề sống còn đối với vận mênh đất nước, nhưng thay đổi quá ít và quá muộn (too little too late) có thể trở thành vô nghĩa, vì để mất cơ hội mới, hoặc đánh mất nốt lòng tin còn sót lại.

Nguyễn Quang Dy. 18/2/2016

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-2-16
-------------------------
Nguồn: viet-studies

Wednesday, February 17, 2016

Cuộc chiến tranh Biên giới chống Trung Quốc xâm lược 1979

Lịch sử hiện đại của Việt Nam sẽ không được lãng quên cuộc chiến 1979. Nếu không nhắc đến nó hoặc nhắc không đủ đầy, dù cố tình hay vô ý, đều là có tội với dân tộc. Dù tương lai của nhân loại được tin là hòa bình và hữu nghị thì quá khứ vẫn cẫn được coi như bài học để không chủ quan và mù quáng, viển vông(1)

Cách đây 37 năm, TQ đã nổ súng tấn công toàn dải biên giới phía Bắc và gây tội ác man rợ với đồng bào các tỉnh biên giới. Chúng đã tàn sát nhân dân ta, hãm hiếp phụ nữ và giết trẻ nhỏ theo cách không thể nào mất nhân tính hơn. Chúng đã tàn phá thành thị làng mạc của nước ta như Lạng sơn, Cao bằng, Lào cai... theo cách hủy diệt. Dù chỉ ít ngày sau bị đánh bại thảm hại, nhưng những gì chúng để lại cho nhân dân ta phải gánh chịu là không hề nhỏ so với bất kỳ cuộc chiến nào trước đó về mức độ tính trên đơn vị thời gian.

Chúng ta ôn lại quá khứ để không được quên. Ôn lại để tri ân những ngưỡi con anh dũng đã nằm xuống. Ôn lại để biết tôn trọng chính mình chính dân tộc mình.



-------
Nguồn: youtube.com

(1) viển vông: Chữ dùng của Thủ trướng Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến thăm và làm việc tại Philippines 5/2014

Tuesday, February 16, 2016

Đặng Tiểu Bình trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979


Trong chuyến công du các quốc gia Á Châu để chuẩn bị hậu thuẫn dư luận trước khi đánh Việt Nam, Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học”.

Câu “Việt Nam là côn đồ” được các đài truyền hình Trung Quốc phát đi và chính Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự Quán Việt Nam tại Quảng Châu, đã xem đoạn phóng sự truyền hình đó “Tôi không bao giờ có thể quên vẻ mặt lỗ mãng và lời nói “bạo đồ” đầy giọng tức tối của ông ta qua truyền hình trực tiếp và tiếng người phiên dịch sang tiếng Anh là “hooligan” – tức du côn, côn đồ.”

tổng thống mỹ

Tại sao Đặng Tiểu Bình nói câu “lỗ mãng” đó?

Đảng CS Trung Quốc "hy sinh" quá nhiều cho đảng CSVN. Không nước nào viện trợ cho CSVN nhiều hơn Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ). Trong cuộc chiến Việt Nam, Trung Quốc không chỉ viện trợ tiền của mà còn bằng xương máu.

Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam: “Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.

Trong số năm nhân vật hàng đầu lãnh đạo Trung Quốc giai đoạn 1977 đến 1980 gồm Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Tiểu Bình thì Đặng Tiểu Bình là người có hoạt động gần gũi nhất với phong trào CSVN. Hơn ai hết, họ Đặng đã tiếp xúc, làm việc với các lãnh đạo CSVN, biết cá tính từng người và cũng biết một cách tường tận và chính xác những hy sinh của Trung Quốc dành cho đảng CSVN.

Trong thập niên 1960, CSVN sống bằng gạo trắng của Trung Quốc nhưng cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết đói trên 10 triệu người.

Trong thời gian hai đảng CS cơm không lành canh không ngọt, bộ máy tuyên truyền CSVN ca ngợi Lê Duẩn như một nhân vật kiên quyết chống bành trướng Bắc Kinh nhưng đừng quên tháng 4, 1965, chính Lê Duẩn đã sang tận Bắc Kinh cầu khẩn Đặng Tiểu Bình để gởi quân trực tiếp tham chiến.

Xung đột biên giới và xô đuổi Hoa Kiều

Theo báo cáo Bộ Quốc Phòng Trung Quốc, các đụng độ quân sự trong khu vực biên giới giữa các lực lượng biên phòng hai nước đã gia tăng đáng kể sau 1975, gồm 752 vụ trong 1977 đến 1,100 vụ trong 1978. Không chỉ về số lượng mà cả tầm vóc của các vụ đụng độ cũng gia tăng. Dù không phải là lý do chính, những đụng độ quân sự cũng là cách gợi ý cho Bắc Kinh thấy giải pháp có thể phải chọn là giải pháp quân sự. Tháng 11, 1978 Phó Chủ Tịch Nhà nước Uông Đông Hưng và Tướng Su Zhenghua, Chính Ủy Hải Quân, đề nghị đưa quân sang Cambodia và Tướng Xu Shiyou, Tư lịnh Quân Khu Quảng Châu đề nghị đánh Việt Nam từ ngã Quảng Tây. Chính sách xô đuổi Hoa Kiều vào sáu tháng đầu 1978 cũng làm Trung Quốc khó chịu về bang giao và khó khăn về kinh tế.

Đánh Việt Nam để củng cố quyền lực

Đặng Tiểu Bình được phục hồi lần chót vào tháng 7, 1977 với chức vụ Phó Chủ Tịch BCH Trung Ương Đảng, Phó Chủ Tịch Quân Ủy Trung Ương, Phó Thủ Tướng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc. Tuy nhiên, tất cả chức vụ này không đồng nghĩa với việc tóm thu quyền lực. Hoa Quốc Phong vẫn là Chủ Tịch Nước và Chủ Tịch Đảng. Các ủy viên Bộ Chính Trị khác như Uông Đông Hưng, người ủng hộ Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm, Phó Chủ Tịch Nước và Phó Chủ Tịch Đảng CSTQ đều còn nhiều quyền hành. Sự đấu tranh quyền lực trong nội bộ đảng CSTQ ngày càng căng thẳng.

Ảnh hưởng của họ Đặng chỉ gia tăng sau chuyến viếng thăm Đông Nam Á và đặc biệt sau Hội Nghị Công Tác Trung Ương từ ngày 10 tháng 11 đến ngày 15 tháng 12, 1978 cũng như Hội Nghị Trung Ương Đảng kỳ III, trong đó các kế hoạch hiện đại hóa kinh tế được đề xuất như chiến lược của Trung Quốc trong thời kỳ mới. Trong nội dung chiến lược này, Mỹ được đánh giá như nguồn cung cấp khoa học kỹ thuật tiên tiến để phục vụ các hiện đại hóa.

Nỗi sợ bị bao vây

Tuy nhiên, câu nói của họ Đặng không phải phát ra từ cá lý do trên mà chính từ nỗi sợ bị bao vây. Học từ những bài học cay đắng của mấy ngàn năm lịch sử Trung Hoa, nỗi sợ lớn nhất ám ảnh thường xuyên trong đầu các thế hệ lãnh đạo CSTQ là nỗi sợ bị bao vây. Tất cả chính sách đối ngoại của đảng CSTQ từ 1949 đến nay đều bị chi phối bởi nỗi lo sợ đó.

Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger, trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) vừa xuất bản, đã trích lại một đoạn đối thoại giữa Phạm Văn Đồng và Chu Ân Lai trong cuộc viếng thăm Trung Quốc của họ Phạm vào năm 1968.

Chu Ân Lai: “Trong một thời gian dài, Trung Quốc bị Mỹ bao vây. Bây giờ Liên Xô bao vây Trung Quốc, ngoại trừ phần Việt Nam”. Phạm Văn Đồng nhiệt tình đáp lại: “Chúng tôi càng quyết tâm để đánh bại đế quốc Mỹ bất cứ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam”. Chu Ân Lai: “Đó chính là lý do chúng tôi ủng hộ các đồng chí”. Phạm Văn Đồng phấn khởi: “Chiến thắng của chúng tôi sẽ có ảnh hưởng tích cực tại châu Á, sẽ đem lại những thành quả chưa từng thấy”. Chu Ân Lai đồng ý: “Các đồng chí nghĩ thế là đúng ”.

Chính sách của Đặng Tiểu Bình đối với Liên Xô kế thừa từ quan điểm của Mao, qua đó, sự bành trướng của Liên Xô được xem như “một đe dọa đối với hòa bình”. Khi Việt Nam rơi vào quỹ đạo Liên Xô sau Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác Việt-Xô được ký ngày 3 tháng 11, 1978, nỗi sợ hãi bị bao vây như Chu Ân Lai chia sẻ với Phạm Văn Đồng không còn là một ám ảnh đầy đe dọa mà là một thực tế đầy nguy hiểm.

Cambodia, giọt nước tràn ly

Không những Trung Quốc sợ bao vây từ phía nam, vùng biên giới Lào mà còn lo sợ bị cả khối Việt Miên Lào bao vây. Để cô lập Việt Nam và ngăn chận khối Việt Miên Lào liên minh nhau, ngay từ tháng 8 năm 1975, Đặng Tiểu Bình cũng đã chia sẻ với Khieu Samphan, nhân vật số ba trong Khmer Đỏ “Khi một siêu cường [Mỹ] rút đi, một siêu cường khác [Liên Xô] sẽ chụp lấy cơ hội mở rộng nanh vuốt tội ác của chúng đến Đông Nam Á”.

Họ Đặng kêu gọi đảng CS Campuchia đoàn kết với Trung Quốc trong việc ngăn chận Việt Nam bành trướng. Hoa Quốc Phong cũng lập lại những lời tương tự khi tiếp đón phái đoàn của Tổng bí thư đảng CS Lào Kaysone Phomvihane nhân chuyến viếng thăm Trung Quốc của y vào tháng Ba, 1976.

Tháng Sáu, 1978, Việt Nam chính thức tham gia COMECON và tháng 11 cùng năm Việt Nam ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác có bao gồm các điều khoản về quân sự với Liên Xô.

Tháng 12 năm 1978, Việt Nam xâm lăng Campuchia đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và thiết lập chế độ Heng Samrin thân CSVN. Đặng Tiểu Bình xem đó như giọt nước tràn ly và quyết định chặt đứt vòng xích bằng cách dạy cho đàn em phản trắc CSVN “một bài học”. Đặng Tiểu Bình chọn phương pháp quân sự để chọc thủng vòng vây.

Quyết định của Đặng Tiểu Bình

Hầu hết tài liệu đều cho thấy, mặc dầu có sự chia rẻ trong nội bộ Bộ Chính Trị đảng CSTQ, quyết định tối hậu trong việc đánh Việt Nam là quyết định của Đặng Tiểu Bình.

Tại phiên họp mở rộng ngày 31 tháng 12, 1978 Đặng Tiểu Bình chính thức đề nghị thông qua kế hoạch tấn công “trừng phạt” Việt Nam. Các thành viên tham dự chẳng những đồng ý với kế hoạch đầu tiên tấn công vào Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai mà cả kế hoạch được sửa đổi trong đó có việc phối trí hai binh đoàn có thể tấn công vào Điện Biên Phủ từ ngã Mengla và Vân Nam qua đường Lào để đe dọa trực tiếp đến Hà Nội. Cũng trong phiên họp này Đặng Tiểu Bình cử Tướng Hứa Thế Hữu, Tư lịnh cánh quân từ hướng Quảng Tây, Tướng Dương Đắc Chí, đương kiêm Tư Lịnh Quân Khu Vũ Hán, chỉ huy cánh quân từ hướng Vân Nam.

Soạn kế hoạch trên giấy tờ thì dễ nhưng với một người có đầu óc thực tiễn như Đặng Tiểu Bình, y biết phải đối phó với nhiều khó khăn. Trong điều kiện kinh tế và quân sự còn rất yếu của Trung Quốc vào năm 1979, đánh Việt Nam là một quyết định vô cùng quan trọng. Đặng Tiểu Bình nắm được Bộ Chính Trị CSTQ nhưng về mặt đối ngoại, Đặng Tiểu Bình phải thuyết phục các quốc gia Đông Nam Á, Á Châu và nhất là Mỹ.

Lên đường thuyết khách tìm đồng minh

Cuối năm 1978, Đặng Tiểu Bình, 74 tuổi, thực hiện một chuyến công du chính thức và lịch sử với tư cách lãnh đạo tối cao của Trung Quốc để vừa thúc đẩy Bốn Hiện Đại Hóa và vừa dọn đường đánh Việt Nam.

Họ Đặng viếng thăm hàng loạt quốc gia châu Á như Nhật, Thái Lan, Mã Lai, Singapore, Miến Điện, Nepal. Tại mỗi quốc gia thăm viếng, họ Đặng luôn đem thỏa ước Việt-Xô ra hù dọa các nước láng giềng như là mối đe dọa cho hòa bình và ổn định Đông Nam Á.

Đặng Tiểu Bình phát biểu tại Bangkok ngày 8 tháng 11 năm 1978: “Hiệp ước [Việt Xô] này không chỉ nhắm đến riêng Trung Quốc… mà là một âm mưu Sô Viết tầm thế giới. Các bạn có thể nghĩ hiệp ước chỉ nhằm bao vây Trung Quốc. Tôi đã trao đổi một cách thân hữu với nhiều nước rằng Trung Quốc không sợ bị bao vây. Thỏa hiệp có ý nghĩa quan trọng hơn đối với Á Châu và Thái Bình Dương. An ninh và hòa bình châu Á, Thái Bình Dương và toàn thế giới bị đe dọa.”

Ngoại trừ Singapore, họ Đặng nhận sự ủng hộ của hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. ASEAN lên án Việt Nam xâm lăng Kampuchea. Nhật Bản cũng lên án Việt Nam.

Trong các chuyến công du nước ngoài, việc viếng thăm Mỹ đương nhiên là quan trọng nhất. Trong phiên họp của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng CSTQ ngày 2 tháng 11, 1978, Đặng Tiểu Bình chỉ thị cho Bộ Ngoại Giao Trung Quốc thông báo cho Mỹ biết ý định bình thường hóa ngoại giao.

Đầu tháng 12, Đặng báo cho các bí thư đảng ủy một số tỉnh và tư lịnh các quân khu rằng Mỹ có thể thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc vào đầu năm Dương Lịch 1979. Chính bản thân Đặng đàm phán trực tiếp bốn lần với Leonard Woodcock, Giám Đốc Văn Phòng Đại Diện Mỹ tại Bắc Kinh trong hai ngày 13 và 15 tháng 11, 1978. Trong các buổi đàm phán, Đặng đã nhượng bộ Mỹ bằng cách không đưa vấn đề Mỹ bán võ khí cho Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới bình thường hóa vì Đặng nóng lòng giải quyết quan hệ với Mỹ trước khi xăm lăng Việt Nam.

Chính thức viếng thăm Hoa Kỳ

Ngày 28 tháng Giêng 1979, Đặng Tiểu Bình lên đường chính thức viếng thăm Mỹ. Ông ta nghĩ rằng Mỹ và Trung Quốc đang tiến tới một đồng minh chiến lược chống Sô Viết trên phạm vi toàn cầu nhưng không chắc chắn Mỹ sẽ ủng hộ ra mặt trong cuộc chiến chống Việt Nam sắp tới.

Trong thời gian ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình gặp Tổng Thống Jimmy Carter ba lần. Chỉ vài giờ sau khi hạ cánh xuống Washington DC, Đặng yêu cầu được gặp riêng với Tổng thống Carter để thảo luận về vấn đề Việt Nam. Đề nghị của họ Đặng làm phía Mỹ ngạc nhiên. Chiều ngày 29 tháng Giêng, Đặng và phái đoàn gồm Ngoại Trưởng Hoàng Hoa, Thứ trưởng Ngoại Giao Zhang Wenjin đến gặp TT Carter tại Tòa Bạch Ốc. Phía Mỹ, ngoài TT Carter còn có Phó Tổng Thống Walter Mondale, Ngoại Trưởng Cyrus Vance và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Brzezinski. Trong buổi họp, Đặng Tiểu Bình thông báo cho TT Mỹ biết Trung Quốc đã quyết định chống lại sự bành trướng của Liên Xô bằng cách tấn công Việt Nam và cần sự ủng hộ của Mỹ. Trái với mong muốn của Đặng Tiểu Bình, TT Carter không trả lời ngay, ngoài trừ việc yêu cầu họ Đặng nên “tự chế khi đương đầu với tình trạng khó khăn”.

Ngày hôm sau, Đặng Tiểu Bình nhận lá thư viết tay của TT Carter, trong đó ông có ý cản ngăn họ Đặng vì theo TT Carter dù Trung Quốc có đánh Việt Nam, Việt Nam cũng không rút quân khỏi Cambodia mà còn làm Trung Quốc sa lầy. TT Carter cũng nhắc việc xâm lăng Việt Nam có thể làm cản trở nỗ lực của Trung Quốc cổ võ cho một viễn ảnh hòa bình trên thế giới.

TT Carter viết lại trong nhật ký Jimmy Carter, Keeping Faith, Memoirs Of A President, Ngô Bắc dịch: “Sáng sớm hôm sau, họ Đặng và tôi một lần nữa hội kiến tại Văn Phòng Bàu Dục, chỉ có một thông dịch viên hiện diện. Tôi đã đọc to và trao cho ông ta một bức thư viết tay tóm tắt các lý luận của tôi nhằm ngăn cản một cuộc xâm lăng của Trung Quốc vào Việt Nam. Ông ta đã nhấn mạnh rằng nếu họ quyết định chuyển động, họ sẽ triệt thoái các bộ đội Trung Quốc sau một thời gian ngắn – và các kết quả của một cuộc hành quân như thế nhiều phần có lợi và có hiệu quả lâu dài. Hoàn toàn khác biệt với tối hôm trước, giờ đây ông ta là một lãnh tụ cộng sản cứng rắn, quả quyết rằng dân tộc ông không xuất hiện với vẻ yếu mềm. Ông ta tuyên bố vẫn còn đang cứu xét vấn đề, nhưng ấn tượng của tôi là quyết định đã sẵn được lấy. Việt Nam sẽ bị trừng phạt.”

Ngày 30 tháng Giêng, trong một buổi họp khác với TT Carter, Đặng Tiểu Bình cho biết việc đánh Việt Nam đã được quyết định và sẽ không có gì làm thay đổi. Tuy nhiên, họ Đặng cũng nhấn mạnh chiến tranh sẽ xảy ra trong vòng giới hạn.

Đặng Tiểu Bình không mua chuộc được sự ủng hộ công khai của Mỹ để đánh Việt Nam nhưng ít ra không phải về tay trắng. Tổng thống Carter để lấy lòng “khách hàng khổng lồ” và “đồng minh chiến lược chống Liên Xô” đồng ý cung cấp tin tức tình báo các hoạt động của 50 sư đoàn Liên Xô trong vùng biên giới phía bắc Trung Hoa. Mỹ cũng dùng vệ tinh để theo dõi trận đánh biên giới và cũng nhờ những tấm ảnh chụp từ vệ tinh mà các cơ quan truyền thông biết ai đã dạy ai bài học trong chiến tranh biên giới Việt Trung 1979. Trong buổi họp riêng với Tổng thống Carter trước khi lên máy bay, Đặng khẳng định “Trung Quốc vẫn phải trừng phạt Việt Nam”.

Chuyến viếng thăm Mỹ là một thành công. Dù Mỹ không ủng hộ nhưng chắc chắc Đặng biết cũng sẽ không lên án Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Trên đường về nước, Đặng ghé Tokyo lần nữa để vận động sự ủng hộ của Nhật.

Hai ngày sau khi trở lại Bắc Kinh, ngày 11 tháng 2, 1979, Đặng triệu tập phiên họp mở rộng của Bộ Chính Trị và giải thích đặc điểm và mục tiêu của cuộc tấn công Việt Nam.

Ngày 17 tháng 2, 1979, Đặng Tiểu Bình xua khoảng từ 300 ngàn đến 500 ngàn quân, tùy theo nguồn ghi nhận, tấn công Việt Nam.

Lãnh đạo CSVN ở đâu trong ngày quân Trung Quốc tràn qua biên giới?

Trong khi Đặng Tiểu Bình chuẩn bị một cách chi tiết từ đối nội đến đối ngoại cho cuộc tấn công vào Việt Nam, các lãnh đạo CSVN đã bị CSTQ tẩy não sạch đến mức nghĩ rằng người Cộng Sản đàn anh dù có giận cỡ nào cũng không nỡ lòng đem quân đánh đàn em CSVN.

Dương Danh Dy, nguyên Tổng Lãnh Sự tại Quảng Châu nhắc lại “Trong tận đáy lòng chúng tôi vẫn hy vọng, có thể một cách ngây thơ rằng, Việt Nam và Trung Quốc từng quá gần gũi và hữu nghị, họ [Trung Quốc] chẳng lẽ thay đổi hoàn toàn với Việt Nam quá nhanh và quá mạnh như thế.

Khi hàng trăm ngàn quân Trung Quốc tràn sang biên giới, Thủ Tướng CS Phạm Văn Đồng và Đại Tướng Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng vẫn còn đang viếng thăm Campuchia.

Tình báo Việt Nam không theo dõi sát việc động binh ồ ạt của Trung Quốc và cũng không xác định được hướng nào là trục tiến quân chính của quân Trung Quốc. Tác giả Xiaoming Zhang viết trong Tái đánh giá cuộc chiến Trung Việt 1979Rõ ràng tình báo Việt Nam thất bại để chuẩn bị cho việc Trung Quốc xâm lăng” và “Mặc dù Trung Quốc nhiều tháng trước đó đã có nhiều dấu hiệu chiến tranh, các lãnh đạo Việt Nam không thể nào tin “nước xã hội chủ nghĩa anh em” có thể đánh họ.

Dù bị bất ngờ, hầu hết các nhà phân tích quân sự, kể cả nhiều tác giả người Hoa, cũng thừa nhận khả năng tác chiến của phía Việt Nam vượt xa khả năng của quân đội Trung Quốc.

Tạp chí Time tổng kết dựa theo các nguồn tin tình báo Mỹ, chỉ riêng trong hai ngày đầu thôi và khi các quân đoàn chính quy Việt Nam chưa được điều động đến, dân quân Việt Nam vùng biên giới đã hạ bốn ngàn quân chủ lực Trung Quốc. Tác giả Xiaobing Li, trong bài viết Quân đội Trung Quốc học bài học gì dựa theo khảo cứu A History of the Modern Chinese Army đã mô tả quân Trung Quốc chiến đấu tệ hại hơn cả trong chiến tranh Triều Tiên mấy chục năm trước.

Nếu ngày đó giới lãnh đạo CSVN không tin tưởng một cách mù quáng vào ý thức hệ CS và “tình hữu nghị Việt Trung”, nhiều ngàn thanh niên Việt Nam đã không chết, Lạng Sơn đã không bị san bằng, hai tiểu đoàn bảo vệ thị trấn Đồng Đăng chống cự lại hai sư đoàn Trung Quốc đã không phải hy sinh đến người lính cuối cùng.

Bài học lịch sử từ chiến tranh biên giới 1979

Từ đó đến nay, khi đánh khi đàm, khi vuốt ve khi đe dọa nhưng các mục tiêu của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc đối với Việt Nam từ chiến tranh biên giới 1979 đến Hội Nghị Thành Đô 1990 vẫn không thay đổi. Trung Quốc bằng mọi phương tiện sẽ buộc Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Quốc về chế độ chính trị, là một phần không thể tách rời trong toàn bộ chiến lược an ninh châu Á của Trung Quốc và độc chiếm toàn bộ các quyền lợi kinh tế vùng biển Đông bao gồm cả các vùng biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa đang tranh chấp.

Đặng Tiểu Bình trước đây và các lãnh đạo CSTQ hiện nay sẳn sàng dùng bất cứ phương tiện gì để thực hiện các chủ trương đó kể cả việc xóa bỏ nước Việt Nam trong bản đồ thế giới bằng một chính sách đánh phủ đầu (preemptive policy).

Đừng quên họ Đặng đã từng chia sẻ ý định này với Tổng thống Jimmy Carter “Bất cứ nơi nào, Liên Xô thò ngón tay tới, chúng ta phải chặt đứt ngón tay đó đi”. Đặng Tiểu Bình muốn liên minh quân sự với Mỹ như kiểu NATO ở châu Âu để triệt tiêu Liên Xô tại châu Á.

Cựu Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger giải thích quan điểm này của họ Đặng trong tác phẩm Về Trung Quốc (On China) của ông: “Những gì Đặng Tiểu Bình đề nghị về căn bản là chính sách đánh phủ đầu, đó là một lãnh vực trong chủ thuyết quân sự ngăn chận tấn công của Trung Quốc… Nếu cần thiết, Trung Quốc sẽ chuẩn bị phát động các chiến dịch quân sự để phá vỡ kế hoạch của Liên Xô, đặc biệt tại vùng Đông Nam Á”. “Đông Nam Á” và “ngón tay” theo ý Đặng Tiểu Bình tức là Việt Nam và liên kết quân sự theo dạng NATO không phải là để dời vài cột mốc, dở một đoạn đường rầy xe lửa, đụng độ biên giới lẻ tẻ mà là cuộc tấn công phủ đầu, triệt tiêu có tính quyết định trước khi Việt Nam có khả năng chống trả.

Cựu Ngoại trưởng Mỹ bà Madeline Albright có câu nói rất hay “Lịch sử chưa bao giờ lập lại một cách chính xác nhưng chúng ta phải gánh lấy tai họa nếu không học từ lịch sử.” Với Chiến Tranh Lạnh đang diễn ra tại Châu Á hiện nay và với nền kinh tế Trung Quốc phát triển nhưng không lối thoát cho bộ máy chính trị độc tài toàn trị đang được chạy bằng nhiên liệu Đại Hán cực đoan, chiến tranh sẽ khó tránh khỏi dù các bên có muốn hay không.

Việt Nam, quốc gia vùng trái độn giữa hai quyền lực thế giới, chưa bao giờ đứng trước một chọn lựa sinh tử như hôm nay. Một người có trách nhiệm với tương lai đất nước, dù cá nhân có mang một thiên kiến chính trị nào, cũng phải biết thức tỉnh, biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên, biết chọn hướng đi thích hợp với đà tiến văn minh dân chủ của thời đại, chấm dứt việc cấy vào nhận thức của tuổi trẻ một tinh thần bạc nhược, đầu hàng.

Lịch sử đã chứng minh, Trung Quốc giàu mạnh nhưng không phải là một quốc gia đáng sợ. Nỗi sợ hãi lớn nhất của người Việt Nam là sợ chính mình không đủ can đảm vượt qua quá khứ bản thân, không đủ can đảm thừa nhận sự thật và sống vì tương lai của các thế hệ con cháu mai sau.

Trần Trung Đạo

Tham khảo:

- Deng Xiaoping and China’s Decision to go to War with Vietnam, Xiaoming Zhang, MIT Press 2010
- China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, Xiaoming Zhang
- Henry Kissinger, On China, The Penguin Press, New York 2011
- Graham Hutchings, Modern China, Harvard University Press, 2001
- A Reassessment, China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment, The China Quarterly, 2005
- Todd West, Failed Deterrence, University of Georgia
- Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989
- Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999 - Wikipedia Đặng Tiểu Bình
- Wikipedia Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979
- Vietnam tense as China war is marked, BBC, 16 February 2009
- A History of the Modern Chinese Armypp. P 255-256, 258-259 , Xiaobing Li (U. Press of Kentucky, 2007)
- Jimmy Carter, cựu Tổng Thống Hoa Kỳ, Ghi nhớ về chiến tranh Trung Quốc – Việt Nam năm 1979, Ngô Bắc dịch
===========================
Nguồn: FB trần-trung-đạo