Saturday, November 30, 2013

Tổng hợp code thông dụng cho bài viết blog

Chắc hẳn các blogger mới dùng nền tảng blogspot khi đăng bài hoặc chỉnh sửa blog của mình thường gặp một số khó khăn nho nhỏ trong việc dùng một số code cơ bản để trang trí hay tùy chỉnh blog theo ý muốn.
Dưới đây là một vài code thông dụng rất cần thiết khi đăng bài viết blog:

1/ Khung viền nội dung bài viết
<div style="background: #eee; border: #4F4F4F 1px solid; padding: 4px; width: 400px;">
NỘI_DUNG 
</div>
trong đó:
#eeeeee : là màu nên của khung;       #4f4f4f: là màu viền khung;      solid: dạng viền khung.
1px: là độ dày đường viền;      400px : chiều rộng của khung.;  NỘI_DUNG: Là văn bản muốn viền khung.

- Lưu ý: Có nhiều dang viền khung khác nhau, nhưng phổ biến là các dạng sau: solid: viền đơn/ double: viền kép (đôi)/ dashed: viền đứt đoạn/ dotted: viền chấm .

2/ Nút Ẩn/Hiện cho bài viết dài:
TagName('div')[0].style.display != '') { this.parentNode.parentNode.getElementsByTagName('div')[1].getElementsByTagName('div')[0].style.display = '';this.innerText = ''; this.value = 'Ẩn'; } else { this.parentNode.parentNode.getElementsByTagName('div')[1].getElementsByTagName('div')[0].style.display = 'none'; this.innerText = ''; this.value = 'Xem'; }">
<div>
<div>
<div style="display: none;  border:#4F4F4F 1px solid; padding: 4px; background:# ">

NỘI_DUNG 

</div>
</div>
</div>
- Code trên được dùng để giấu đi một phần bài viết dài hoắc để giấu phần nội dung nhạy cảm mà người viết muốn cảnh báo cho người đọc trước khi xem. NỘI_DUNG là phần muốn Ẩn.

3/ Code chèn bảng vô bài viết:
<table><tbody>
<tr><td class="column_1" style="font:12px Tahoma; color:#000000; width:120px;padding:4px;" valign="top"><div class="column_1">

Nội_dung_cột_1

</div>
</td><td class="column_2" style="font:12px Tahoma; color:#000000;width:120px;padding:4px;" valign="top"><div class="column_2">

Nội_dung_cột_2

</div>
</td></tr>
</tbody></table>
Nếu thêm cột thì thêm ngay trên dòng </td></tr> đoạn code sau đây:
</td><td class="column_n" style="font:12px Tahoma; color:#000000;width:120px;padding:4px;" valign="top">&ltdiv class="column_n">

Nội_dung_cột_moi

</div>
4/ Post code trong bài viết:

Với ký tự < phải đổi thành &lt; 
Với ký tự > phải đổi thành &gt;
Với ký tự & phải đổi thành &amp;
Với khoảng trắng phải đổi thành &nbsp;

Để post các chú thích kí tự trên lên blog được thì: 

&lt; phải đổi thành &amp;lt; 
&gt; phải đổi thành &amp;gt; 
&amp; phải đổi thành &amp;&amp;

(Còn tiếp...)

-------------------
Nguồn: Sưu tầm và tổng hợp

Thursday, November 28, 2013

Vài nét về tiểu sử ông Ngô Đình Nhu*

Đoạn trích dưới đây nằm trong bài giới thiệu luận văn tốt nghiệp của ông Ngô Đình Nhu,  viết gọn và chắt lọc nhiều chi tiết khắc họa nổi bật tính cách và tư tưởng của một nhà chính trị xuất sắc. Tư liệu về ông Nhu không có nhiều nên những thông tin tác giả bài viết nêu rất có giá trị. Vì vậy muốn lưu lại để tìm hiểu thêm về con người và sự nghiệp của ông


(Trích)
Năm 1970, tức là 7 năm sau khi chế độ Diệm-Nhu sụp đổ, ông Trần Kim Tuyến, một người bạn và sau này là cộng sự thân thiết của ông Nhu, cho biết ông Nhu có bằng cử nhân văn học ở Sorbonne rồi học tiếp École des Chartes. Trong một tài liệu khác thì nói rõ ông Nhu học ngành cổ tự học lưu trữ (archiviste palégraphe). Ông Tuyến cho biết trường này rất kén chọn, sinh viên phải qua hai năm dự bị ở một trường rất danh tiếng là Henry Đệ Tứ rồi mới được nhập học, mỗi lớp chỉ có 20 học viên, sử dụng tiếng Latin rất nhiều, và chỉ có hơn một nửa số học viên này tốt nghiệp (link này cho thấy năm 1938 chỉ có 13 người trong danh sách luận văn). Do đó có từ “Chartistes” để chỉ các sinh viên tinh hoa của trường này. Năm 1961, khi ở đỉnh cao quyền lực, ông Nhu có đi qua Paris và gặp gỡ cá nhân với ngoại trưởng Pháp là Couve de Murrville, đại sứ Pháp ở VN và Étienne Manach phụ trách Châu Á của bộ ngoại giao Pháp. Cũng theo ông Tuyến thì nhờ hào quang của trường Chartes nên các cuộc gặp chỉ là cá nhân mà ông Nhu đã phá băng quan hệ Pháp Việt. Sau khi có ủng hộ của Pháp, ông Nhu bắt đầu chống Mỹ mạnh hơn, dẫn đến việc Mỹ quyết thay thế Diệm Nhu. Và theo như Phạm Xuân Ẩn trong “Perfect Spy” thì một trong những lực lượng gây ra cái chết của ông Nhu chính là CIA, đã can thiệp sâu vào đảo chính, thông qua một người bạn CIA của ông Ẩn tên là Lou Conein. Tuy nhiên, ông Ẩn tránh không nói đến ai trực tiếp ra lệnh giết ông Nhu, có thể bởi người ra lệnh (Minh Cồ) lại là bạn của ông Ẩn. Có vẻ như giữa ông Ẩn và ông Nhu chỉ có một người bạn chung nổi tiếng: đại tá Edward Lansdale, người vẫn được cho là nguyên mẫu của The Quiet American , và dù có không phải thì về sau tiểu sử của Lansdale vẫn có tên là The Unquiet American .

Trở về Hà Nội năm 1938 ngay sau khi tốt nghiệp (28 tuổi), ông Nhu làm việc như một học giả trẻ cho đến khi bị lùng bắt và phải bỏ trốn qua Lào rồi về Đà Lạt. Cụ thể từ năm 38 đến 43 ông làm nhân viên Nha văn khố trung ương Hà Nội. Sau đó kiêm thêm Chủ sự văn khố tòa khâm sứ Huế. Triều đình Huế cũng bổ nhiệm ông làm Chủ tịch hội đồng chỉnh đốn Châu bản của Văn khố nhà Nguyễn. Sau đó Nhật đảo chính Pháp, ông Nhu (có thể vì có anh ruột là ông Diệm thân Nhật chống Pháp) nên được bổ nhiệm làm Giám đốc văn khố trung ương tại Hà Nội. Năm 1945 ông Nhu đã kịp xuất bản cuốn khảo cứu ” “La Fête de l’ouverture du Printemps a Hanoi – Hội Khai xuân ở Hà Nội”.

Trong thời gian này, ông Nhu cũng lấy vợ, đám cưới được làm lễ ở Nhà thờ lớn Hà Nội. Vợ ông là Trần Lệ Xuân, kém ông 14 tuổi, sau này nổi tiếng với tên gọi “đệ nhất phu nhân” ở Việt Nam, và với tên do tổng thống Kennedy đặt là Dragon Lady (bà chằn) ở Mỹ. Trần Kim Tuyến mô tả bà Trần Lệ Xuân, một thiếu nữ trẻ đẹp, sống trong nhung lụa, phải học tiếng Việt qua gia sư, và là “một phụ nữ thuộc một giai cấp ở Việt Nam không có”. Bà Xuân đã “nuôi chồng” suốt thời gian ông Nhu “thất nghiệp, chưa có sự nghiệp”, ở Đà Lạt và sau đó là Sài Gòn. Thời kỳ đó ông Nhu không có cả tiền để mua thuốc lá và ăn sáng, phải có bạn bè cộng sự “bao”. Cuộc sống giản dị kiểu một trí thức khắc kỷ này đã đi cùng ông Nhu đến hết cuộc đời.

Các tài liệu nói rất rõ sau Cách mạng tháng 19/8/1945 ông Diệm bị bắt và được thả, nhưng về ông Nhu thì chỗ nói bị bắt, chỗ nói không bị bắt. Tuy nhiên theo như tôi hiểu qua câu chuyện tôi mới được nghe kể gần đây thì ngay sau 19/8 ông Hà đã đến gặp ông Nhu (lúc đó làm việc dưới quyền bộ trưởng Võ Nguyên Giáp) rồi sử dụng xe của chính phủ (đi mua gạo) để đưa ông Nhu trốn ra ngoại thành, rồi đi Phát Diệm. Chi tiết này có lý vì ông Hà lấy bằng Tiến sỹ Chính trị học ở ngôi trường danh tiếng Sciences Po năm 1937 rồi về nước hoạt động xã hội rất mạnh, trở nên nổi tiếng và có rất nhiều quan hệ với các phe phái lực lượng. Chắc ông Hà có quen ông Nhu từ lúc ở Paris, và ở thời điểm sau 19/8 ông Hà có thể biết ông Nhu đang gặp nguy hiểm (hai người anh của Nhu một bị bắt, một bị giết cùng thời kỳ này) đã báo cho ông Nhu và giúp ông Nhu bỏ trốn. Cuộc gặp giữa ông Hà và ông Nhu, tôi nghe kể: “nói bằng tiếng Pháp, tôi chỉ nghe được câu mốt câu hai, nhưng chắc chắn là về chính trị”, có lẽ “chuyện chính trị” mà hai ông nói liên quan đến việc tính mạng ông Nhu đang nguy cấp. Trong cuốn sách mới xuất bản của bà Nhu (11.2013) cũng có nói việc ông Nhu bị bắt hụt ở Huế, sau đó ra Hà Nội và biến mất. Bà Nhu cũng phải trốn vào Sài Gòn và rồi bất ngờ gặp chồng mình đang trốn cùng một chỗ.

Trong quá trình chạy trốn, ông Nhu quen Trần Kim Tuyến, lúc này là một thành niên trẻ mới học xong tú tài. Trần Kim Tuyến sau trở thành trùm mật vụ của chế độ Diệm-Nhu trước khi bị ông Nhu nghi ngờ và cách chức. Sau khi bị Nhu phế, ông Tuyến sợ quá trốn ra nước ngoài. Sau sự kiện 1963 ông Tuyến mới dám trở về Sài Gòn những cũng vẫn bị bắt. Người cứu ông là Phạm Ngọc Thảo, một điệp viên của miền bắc, và là đại tá quân đội VNCH lúc bấy giờ. Đến 30/4, một lần nữa ông Tuyến lại được Phạm Xuân Ẩn, cũng là một tay tình báo của miền bắc, cứu vào phút chót. Chưa hết, trợ lý thân tín của ông Tuyến là Ba Quốc, cũng là tình báo của miền bắc (thiếu tướng Đặng Trần Đức). Điều này thật kỳ lạ. Nó cũng kỳ lạ như Phạm Ngọc Thảo sau chính biến đã đem một toán quân xuống Chợ Lớn để cứu Diệm và đưa Nhu ra nước ngoài nhưng bất thành. Chuyện đại tá Thảo và ông Ẩn hai lần cứu cựu trùm mật vụ Trần Kim Tuyến, đều do ông Ẩn và chính bác sỹ Tuyến kể lại. Sau này, năm 1965, Phạm Ngọc Thảo bị mật vụ truy sát, bắn ở bờ suối, nhưng không chết mà vẫn xin được giấy của học trò để viết tin nhắn. Bức thư viết tay đẫm máu của ông Thảo hiện vẫn ở Sài Gòn. Cách đây mấy hôm tôi đã ngồi cách nó chỉ độ hai mét nhưng mà không được xem tận mắt.

Ông Nhu, vốn là con trai của một gia đình quan lại phong kiến nhưng theo tây học, trở thành học giả trẻ uyên bác, điều này lý giải cho việc sau nhiều năm ở ẩn ông bất ngờ trở thành một chính trị gia mưu lược và bí hiểm. Các phát biểu của ông Nhu cộng với nội dung cuốn sách, được coi là của Ngô Đình Nhu, xuất bản sau khi ông bị giết (Chính đề Việt Nam) hé lộ rất nhiều chi tiết cho thấy một học giả cổ sử, am hiểu lịch sử Việt Nam và Châu Âu, đã nghiền ngẫm tri thức trị quốc của nhà Nguyễn, của Châu Âu rồi biến nó thành tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình.

Cách ông Nhu sáp nhập Hoàng Triều Cương Thổ, dẹp yên các tổ chức có vũ trang ở miền nam, xây dựng ấp chiến lược … (theo thứ tự) cực kỳ giống những gì nhà Nguyễn đã làm (theo thứ tự) với vương quốc cuối cùng của Chân Lạp (1832), dẹp loạn Lê Văn Khôi (1832-1835), dẹp Mọi Đá Vách ở Quảng Ngãi (1863). Trong Chính Đề Việt Nam (sử dụng bút danh Tùng Phong) ông cũng không che dấu các bí quyết trị quốc phải được truyền từ đời (vua) này qua đời khác, một cách nói khéo rằng các ông đã học các bí quyết trị nước từ quá khứ.

Ở một khía cạnh khác, ông Nhu học hỏi rất nhiều từ lịch sử chính trị Châu Âu, và trở thành hình mẫu lãnh đạo chính trị kiểu Machiavelli đầu tiên ở Việt Nam. Siêu điệp viên Phạm Xuân Ẩn cho rằng ông Nhu là người tổ chức ám sát Trình Minh Thế. Đại tá an ninh quân đội Đỗ Mậu và trùm mật vụ Trần Kim Tuyến thì kể chi tiết cách ông Nhu xử lý các vấn đề biên giới và xung đột sắc tộc với Khmer bằng cách tổ chức ám sát Sihanouk và đảo chính ở Cambodia. Với những kẻ có quyền lực yếu hơn, đôi khi ông Nhu cũng vẫn Machiavelli nhưng theo kiểu ngược lại. Bác sỹ Tuyến kể việc ông Nhu giải quyết các hộ kinh doanh bình dân sống bằng kinh doanh vỉa hè rất lộn xộn bằng cách mời đại diện nghiệp đoàn của họ vào Dinh để nói chuyện. Đó là ông Vượng, người đã phát minh ra “bia cốc bờ Hồ” được ưa chuộng cực kỳ ở Hà Nội trước 1954. Món “bia cốc” này, tôi nghĩ, chính là tiền thân của bia hơi Hà Nội mà ngày nay chúng ta vẫn nốc cùng thịt chó.

Cách hành xử thực dụng và máu lạnh kiểu Machiavelli đã khiến ông Nhu trở thành chính trị gia bị sợ hãi và căm ghét; từ đó người ta quên đi rằng ông này có lẽ là người đầu tiên (và cũng có lẽ là duy nhất) biết cách và có chủ ý xây dựng một quốc gia dân tộc (quốc gia = nhà nước) đúng nghĩa. Một nation builder, nói theo kiểu tây, có kiến thức lịch sử chính trị và địa lý vững chắc, nắm vững tình thế, hiểu đại cục từ trong nước đến quốc tế, có tầm nhìn xa và dự báo chiến lược khá chính xác. Ngày nay nhìn lại, có nhiều cái ông Nhu tiên đoán, nhận định, chuẩn vãi chưởng.

Tôi đoán rằng, việc ông Diệm phế ông Bảo Đại và biến Việt Nam thuộc Pháp từ thể chế quân chủ sang thể chế cộng hòa hoàn là đường lối của ông Nhu. Hiến pháp của thể chế này không thấy ở đâu nói là ai viết, nhưng chắc cũng có bàn tay của ông Nhu. Ngày mà bản Hiến pháp 1956 này được thông qua cũng được lấy làm ngày quốc khánh của Việt nam Cộng hòa (sau được gọi là nền cộng hòa đệ nhất).

Cách cai trị độc tài của chế độ Diệm-Nhu, định hình bởi bộ óc của ông Nhu và phong cách quan lại của ông Diệm vốn là quan lớn của nhà Nguyễn. Phương pháp cai trị của ông Nhu có thể đến từ việc ông đã nghiên cứu rất kỹ Hitler, Gandi, Lenin, Mao cũng như am hiểu sâu sắc bản chất con người Việt Nam. Trần Kim Tuyến cho biết ông Nhu mỗi năm đóng cửa 10 ngày chỉ để đọc sách. Đọc sách gì ông cũng có kế hoạch sẵn, đọc cuốn nào cũng có ghi chú đầy đủ. Các nhân vật mà ông Nhu thích đọc là Lenin, Mao. Phòng làm việc rất ngăn nắp và tài liệu sắp đặt rất khoa học. Công cụ và lực lượng dùng để cai trị của ông Nhu, rất giống nhà nước cảnh sát của Hitler. Thế nhưng theo ông Cao Xuân Vỹ , trợ lý của cả ông Diệm lẫn ông Nhu, thì chính văn phòng của ông Nhu lại rất ít nhân sự, các nhân sự cũng “tự túc” là chính, phải chăng là do lối sống khắc kỷ và tinh thần “cần cù lao động” để cống hiến cho tập thể của chủ nghĩa “personism”?

Sách ông Nhu đọc theo lời kể của bác sỹ Tuyến là các sách ông đọc sau này, khi đã thành chính trị gia ở Sài Gòn. Còn trước đó, khi ở ẩn trồng hoa lan trên Đà Lạt, hay thủa đi học ở Paris ông đọc gì? Tôi đoán ông Nhu đã đọc các sách cổ sử như kiểu Herodotus, hay các sách địa lý, tôn giáo thế giới.

Dấu vết của việc đọc này có thể tìm thấy trong Chính đề Việt nam, khi tác giả của cuốn sách phân tích lịch sử văn minh nhân loại, cùng với sự hình thành và suy yếu của các đại đế quốc, từ La Mã đến Quốc Xã, từ Nga đến Liên Xô, so sánh các thể chế trong lịch sử, giữa Anh và Pháp. Tôi cũng đoán ông Nhu có đọc cả Gustave Le Bon khi ông phân tích đặc tính tâm lý của dân tộc Việt Nam, mà ông dùng từ tính khí, đó là yếu ớt và nhược tiểu, dẫn đến ứng xử ngoại giao yếu kém do tính khí yếu ớt lại đặt dưới áp lực đe dọa bởi ngoại xâm. Tất nhiên ông Nhu thuộc cổ sử Việt Nam, và trong 2 trang của Chính Đề ông đã diễn giải chính xác công cuộc Nam tiến của dân tộc Việt trong 1000 năm trở lại đây cũng như mổ xẻ chi tiết lý do/nguyên nhân Trung Quốc luôn có khát khao xâm lược Việt Nam. Với cuốn sách hoàn thành năm 1962 này, ông Nhu có lẽ là người đầu tiên đặt ra nhiều câu hỏi sâu sắc cho dân tộc, ví dụ như tại sao người Việt có bờ biển dài hàng ngàn cây số mà chưa bao giờ họ khao khát đi ra biển, thậm chí cũng chưa một lần tiến lên cao nguyên trong suốt quá trình Nam tiến ấy; cũng như là người đầu tiên phát biểu và chứng minh được mở cửa và hội nhập sâu (mà ông gọi là phương tây hóa, ngày nay gọi là toàn cầu hóa) không làm mất đi cái gọi là bản sắc dân tộc. Một số “sách lược, chiến lược” ông Nhu chỉ ra trong sách, sau này không hiểu vô tình hay học lóm mà các chế độ sau đều áp dụng.

Là một nhà nghiên cứu cổ tự, ông Nhu sớm nhận ra giới hạn nghèo nàn của tiếng Việt và danh từ tiếng Việt, cũng như lợi thế của chữ quốc ngữ so với chữ nôm. Trong CĐVN, ông dành hẳn một phần rất dài đưa ra các giải pháp làm mạnh tiếng Việt.

Về tư tưởng, trong A history of the Vietnamese, nhà sử học K.W. Taylor cho rằng ông Nhu từ chối cả hai ý thức hệ (tư bản và cộng sản, quần chúng và cá nhân). Chính đảng do ông Nhu xây dựng có tên là Đảng Cần Lao, nếu dịch ra tiếng Anh (Labor Party) thì rất giống tên chính đảng cầm quyền ở miền bắc lúc bấy giờ là Đảng Lao Động. Nhưng trong tiếng Việt thì ông Nhu lý giải rằng chữ “động” trong “lao động” có màu sắc cưỡng bức đám đông của Mao còn chữ “cần” trong “cần lao” của ông Nhu thì có màu sắc tự nguyện. Sử gia Taylor giải thích triết lý (ý thức hệ) Nhân Vị của ông Nhu là do chịu ảnh hưởng triết lý “personalism” của triết gia công giáo Emmanual Mounier (khi ông còn ở khu Latin, Paris), nhưng ông Nhu đã nhấn mạnh chân giá trị của cá nhân trong bối cảnh “hợp tác tập thể để tự cá nhân” rồi phát triển nó thành học thuyết riêng của mình mang tên Nhân Vị. Taylor khuyến nghị cách dịch Nhân Vị ra tiếng Anh là “personism”. Lập luận này của Taylor có lẽ đúng bởi chính ông Nhu phủ nhận thuyết Nhân Vị của mình giống với Nhân Vị của Công giáo. Với học thuyết Nhân Vị, nảy mầm vào khoảng thời gian ông trốn khỏi Hà Nội, ông Nhu đã có tư tưởng chống Mỹ (tư bản) nhiều hơn chống Pháp (theo lời Cao Văn Viên), hòa hợp được nhiều tôn giáo (theo giải thích của ông Nhu), và là cơ sở đề cao sự tự quyết của dân tộc (không cho Mỹ đưa quân vào, không cho tăng cường cố vấn quân sự, không cho đặt cố vấn Mỹ bên cạnh các tỉnh trưởng, …là những cái được chính quyền Sài Gòn chấp thuận sau khi Diệm Nhu bị giết).

Hòa hợp tôn giáo cuối cùng thất bại, nỗ lực chống lại can thiệp quân sự của người Mỹ vào Việt Nam cũng thất bại. Cả hai đều dẫn đến sự sụp đổ của gia đình họ Ngô. Can thiệp của người Mỹ vào đảo chính thì như trên đã dẫn lời Phạm Xuân Ẩn.

Về xung đột với Phật Giáo, sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến nói ngược nhau, nhất là về việc thượng tọa Trí Quang trốn vào sứ quán Mỹ cho đến khi xong đảo chính. Không những thế, vị thượng tọa làm rối beng nền đệ nhất cộng hòa, và làm phó tổng thống đệ nhị là Nguyễn Cao Kỳ phát cáu lên, lại bất ngờ trật tự sau 1975. Còn Phạm Xuân Ẩn, từ thời đó đã biết đại tá Thảo là tình báo của Hà Nội, nhưng sau này có vẻ như lờ đi, không nói về thượng tọa Trí Quang mà chính bạn của ông Ẩn là bác sỹ Tuyến luôn cho là một ông sư marxist. Một chi tiết rất thú vị là Bản dịch Báo cáo vi phạm nhân quyền 1963 ở Nam Việt Nam, đến năm 1966 được dịch in, với lời giới thiệu của thượng tọa Trí Quang đã bỏ không dịch một số “finding” của báo cáo. Các finding này không cho thấy có đàn áp tôn giáo, các nhóm tôn giáo có đụng độ chính quyền đều có màu sắc chính trị (Báo cáo The Violation of human rights in South Viet-Nam do phái đoàn United Nations Fact-Finding Mission to South Viet-Nam thuộc Committee on the Judiciary, U.S. Senate thực hiện). Đây là 2 finding trong số đó: “ 1) There were no religious persecutions as the law did not single out any one particular religion. 2) Deaths at the unfortunate incident near Hue radio station was caused by explosions, most probably made by Communist infiltrators. As South Vietnam army did not have such weapon in their possession.”

Sách của Trần Kim Tuyến và Đỗ Mậu cũng nói ngược nhau về nguyên nhân của sự liên lạc của ông Nhu với Hà Nội. Dù rằng việc liên lạc ấy là có vẻ như là thực và giống nhau trong sách của cả ông Mậu lẫn ông Tuyến: thông qua ngoại giao, bên ông Nhu bí mật vào rừng, hoặc bên miền bắc từ rừng bí mật vào dinh tổng thống (chắc sử liệu ở Hà Nội có ghi chi tiết). Người cán bộ cộng sản thư sinh bí mật vào dinh gặp ông Nhu nhiều lần, được cho là Trần Độ (?). Còn ông Cao Xuân Vỹ sau này tiết lộ rằng: ông Nhu sau khi tìm kiếm được sự ủng hộ của Pháp, trong một chuyến đi săn cọp ở Tánh Linh đã bí mật gặp Phạm Hùng, lãnh đạo cao cấp của mặt trân giải phóng miền nam. Sách của Đỗ Mậu và Trần Kim Tuyến chỉ ngược nhau về cách giải thích. Nhưng dù giải thích thế nào, thì việc ông Nhu bí mật nói chuyện với Hà Nội cũng là một cái cớ nữa để người Mỹ xuống tay. Việc ông Nhu đi Pháp như nói ở trên, cũng là một nước cờ quan trọng nhằm kéo thêm ủng hộ (viện trợ) của Pháp bù vào phần hụt mà Mỹ sẽ cắt đi, trong lúc tiếp tục đàm phán bí mật để dẫn đến thỏa hiệp với Hà Nội (mà nhiều người cho rằng nếu thành công thì sẽ thống nhất đất nước bằng hòa bình, giữ được nền cộng hòa, và ông Nhu có thể một ngày nào đó trở thành thủ lĩnh). Điều này có vẻ cũng có lý, khi trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, ông Nhu đã từng thực hiện thành công một việc tương tự, khi ông gặp bí mật Bảo Đại trước khi ông vua trẻ này rời Việt Nam qua Pháp đúng 10 năm trước (1953).

Trong một nghiên cứu ngắn cách đây chưa đến chục năm, Nguyễn Gia Kiểng đã tiếp xúc và có tài liệu từ một chính trị gia lão thành thuộc phe cánh tả của Pháp, ông Jaques Bénet. Ông Bénet là bạn học cùng trường Chartes với ông Nhu (tốt nghiệp 1939), tham gia kháng chiến, tham gia thành lập đệ tứ cộng hòa của Pháp, và có quan hệ chính trị rộng rãi. Sau này ông Bénet là người của Đảng Xã Hội Pháp. Ông Nhu có tiếp xúc bí mật với Bénet trước khi Bảo Đại qua Pháp; và chính ông Bénet đã làm đầu mối bí mật để vận động Pháp lặng lẽ chọn Ngô Đình Diệm làm giải pháp thay thế Bảo Đại. Nhận định này là do ông Kiểng đã gặp trực tiếp Bénet và đọc từ bức thư riêng mà ông Nhu và Bénet trao đổi với nhau. Ông Kiểng cũng phân tích rằng ông Nhu hoàn toàn không có quan hệ với bất cứ ai ở Mỹ, cho đến khi ông Nhu có quyền lực ông mới quen Lansdales ở Sài Gòn. Ông Diệm thì có một chút quan hệ với Mỹ từ năm 1950, nhưng phải sau khi ông lên tổng thống, qua thăm chính thức nước Mỹ, và sau khi chính phủ Pháp thời De Gaulle quay lưng lại với ông Nhu, thì người Mỹ mới chính thức đứng sau ông Diệm. Ông Kiểng cũng cho rằng sau khi Diệm Nhu bị lật đổ, nước Pháp đã quay về phía Hà Nội.

Các phân tích và lý giải trên cũng phù hợp với nhận định trong cuốn sách mới nhất (2013) của Edward Miller. Các tài liệu được giải mật của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ mà Miller tiếp cận đã cho thấy đến tận tháng 5 năm 1954 Mỹ có ít thông tin và rất mù mờ về ông Diệm: “…the available materials suggest that Dulles and other senior Eisenhower administration offcials were not at most only “vagualy aware” of Diem prior to May 1954.” Lập luận của ông Kiểng cũng khá logic với việc ở giai đoạn chuyển đổi vốn rất cần nhân sĩ thân Pháp nhưng ông Nhu đã không sử dụng nhóm ông Hà (học giỏi, có uy tín, đã từng làm bộ trưởng ở Hà Nội), ông Hãn (học giả lớn), ông Luyện (em ruột ông Nhu và là bạn học của Bảo Đại) dù rằng chính nhóm này đã thuyết phục Bảo Đại ký giấy bổ nhiệm ông Diệm làm thủ tướng. Khi tôi hỏi một người trong nhóm này, ông trả lời đơn giản là ông Nhu không thích tôi. Để khẳng định rõ hơn, ông kể thêm chi tiết ông còn hỏi ông Tuyến xem hồ sơ của ông có vấn đề gì không mà không được Nhu sử dụng. Câu trả lời là hồ sơ sạch. Ông Diệm phần nào giải thích việc không sử dụng các trí thức lớn thiên tả Hà, Hãn, Tường trong thư riêng gửi ký giả Joseph Buttinger năm 1956. Sách của Đỗ Mậu lẫn Trần Kim Tuyến đều nói các bài diễn văn quan trọng của ông Diệm đều do ông Nhu viết bằng tiếng Pháp rồi cho người dịch ra. Lá thư gửi Buttinger có thể cũng do ông Nhu viết.

Các lập luận của ông Kiểng cũng logic với việc một người chống Pháp như ông Diệm mà một mình đơn độc dẹp sạch bách những gì chịu ảnh hưởng của Pháp, kể cả quân đội Bình Xuyên chỉ trong năm 1955. Năm 1955 chính quyền ông Diệm sáp nhập vùng đất Hoàng Triều Cương Thổ của Bảo Đại vào miền nam, cũng như dẹp nguồn tài chính của Bảo Đại ở Chợ Lớn (sòng bài Đại Thế Giới, xóm ăn chơi Bình Khang) do Bình Xuyên của Bảy Viễn điều hành (Bảy Viễn được Bảo Đại phong tướng năm 1952, một năm trước khi Bảo Đại qua Pháp). Chỉ dựa vào ủng hộ của Mỹ mà không có đèn xanh từ Pháp thì sẽ không có giải pháp thay thế ngoạn mục: nhanh và ít đổ máu như vậy. Thậm chí chiến dịch Hoàng Diệu của Dương Văn Minh đánh vào rừng Sác, cũng được cho là chiến dịch do ông Nhu dàn xếp sẵn với Pháp chứ không hẳn là bắn nhau thật. Sau đó Pháp đã đưa Bảy Viễn qua Paris. Trong các sách tôi đọc, thấy cũng ông Nhu luôn chế diễu các phe phái chống cộng là “không có giải pháp thay thế (thì chống để làm gì)” có lẽ là vì lý do bí mật về “giải pháp thay thế Bảo Đại” mà ông Kiểng phát hiện ra.

Nhưng bất kể thế nào, sau một loạt các cú ra tay rất thành công năm 1955 thì qua năm 1956 ông Diệm đã đưa được quân đội Pháp ra khỏi lãnh thổ (26/04/1956), đưa miền nam Việt Nam thoát khỏi Liên hiệp Pháp và chọn thể chế Cộng Hòa cho mảnh đất độc lập mới toe này, chấm dứt 72 năm đô hộ (1884-1956).

Sau khi chế độ Diệm Nhu bị hạ đổ, Sài Gòn rơi vào hỗn loạn chính trị, đảo chính hạ bệ nhau liên tục, cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu lên làm tổng thống tình hình chính trị mới bớt hỗn loạn. Nguyễn Văn Thiệu được cho là người ra lệnh giết Phạm Ngọc Thảo. Ông Ẩn không có nhận xét gì nhiều về Diệm Nhu, nhưng với Thiệu ông mô tả ông tổng thống này như một con khỉ nghiện thuốc phiện của người Hoa, ý nói ông Thiệu là con khỉ nghiện viện trợ của Mỹ. Ông Ẩn, có vẻ như hơi cay đắng khi trách người Mỹ đã lật đổ ông Diệm mà không có “giải pháp thay thế”.

Lịch sử Việt Nam thời kỳ 1946-1955 rất bí hiểm và rối rắm. Mà lịch sử Việt Nam thời kỳ nào cũng thế. Nếu tất cả những thông tin nói trên mà đúng, và chắc là đúng thôi, ít ra ở sự logic các sự kiện và nhân vật, thì ông Nhu là một trường hợp vô tiền khoáng hậu.

Từ một trí thức trẻ uyên bác, nghèo xác xơ, nói và viết tiếng Việt rất kém, trong một bối cảnh xã hội phức tạp vừa thoát khỏi thực dân phong kiến, dân trí thấp, thậm từ vựng chính trị của tiếng Việt cũng vẫn còn nghèo nàn, ông Nhu đã xây dựng được lực lượng chính trị của riêng mình, với tư tưởng và học thuyết chính trị của riêng mình (tuy tổ chức còn lỏng lẻo, nghiệp dư và có nhiều bê bối). Rồi từ đó ông Nhu đã trở thành một chính trị gia mưu lược, rất giỏi ẩn mình. Ông dựng lên một tổng thống đầu tiên, một thể chế chính trị cộng hòa mới mẻ, một nhà nước với guồng máy cai trị thực dụng đến tàn nhẫn nhưng rất hiệu quả.Cuối cùng ông Nhu chết cùng với vị tổng thống và chế độ do chính mình dựng nên, để lại thể chế cộng hòa còn non nớt.

Ngày Diệm-Nhu bị lật đổ được lấy làm ngày quốc khánh thứ hai cùng nền cộng hòa thứ hai (đệ nhị) và bản hiến pháp thứ hai ở miền nam. Người lật đổ Diệm (tổng thống đầu tiên của miền nam) sau này trở thành tổng thống cuối cùng của miền nam và hàng tướng nổi tiếng nhất thế kỷ 20. Các bí ẩn quanh quan hệ của tướng Dương Văn Minh, thượng tọa Trí Quang, nhà điệp báo Phạm Xuân Ẩn, cùng với khám phá mới nhất (2013) của Miller về kế hoạch tấn công giải phóng miền bắc của ông Diệm (sau trận Ấp Bắc), hay lá thư bí mật ngày 2-9-63 của ông Nhu gửi bạn đồng môn tố cáo các âm mưu lật đổ (được lục từ kho lưu trữ École des Chartes và in trong cuốn sách của bà Nhu tháng 11.2013) sẽ là món “nhậu” khoái khẩu cho các vị theo thuyết âm mưu, và là sự hồi hộp cho những ai kiên nhẫn đợi chờ sự tiết lộ dần dà của lịch sử.

Và ngay cả khám phá mới về kế hoạch tấn công miền bắc này, cũng rất thú vị, khi nó có thể là một quân bài để mặc cả cho một quân bài khác, đó là hiệp thương với Hà Nội. Là một nhà nghiên cứu hiểu biết sâu sắc về lịch sử và đặc tính dân tộc theo vùng miền, ông Nhu lập kế hoạch hiệp thương gồm 6 bước: bắt đầu là để nhân dân hai miền trao đổi thư từ, rồi qua lại thăm nhau, rồi trao đổi kinh tế Than-Gạo, rồi định cư, cuối cùng là tổng tuyển cử. Ông Nhu hy vọng sẽ có khoảng 3 triệu người rời miền bắc để định cư ở miền nam, làm cân bằng dân số (mỗi miền 20 triệu), có lợi cho việc trúng cử của ông Diệm hoặc ông Nhu. Kế hoạch này, giờ nhìn vào Nam Hàn-Bắc Hàn ta sẽ thấy rất khả thi, nếu như Pinay, đại diện cho Charles De Gaulle, theo đúng cam kết (khi ông Nhu gặp ở Paris) làm cầu nối chính thức cho hòa đàm Nam-Bắc.

Trước khi chuyển qua bản luận văn, xin trích vài đoạn trả lời của ông Nhu

a) Theo ghi chép của bác sỹ Tuyến:

Câu hỏi: Hình như Đức Hồng Y Spellman có khuyến cáo Tổng Thống nên mở rộng chính phủ và chấp nhận đối lập?

Ông Nhu trả lời: Điều đó có, Tổng Thống cũng đang cứu xét nhưng với một nước chậm tiến như Việt Nam không thể áp dụng chế độ tự do dân chủ như Tây phương.

Đất nước chúng tôi truyền thống dân chủ từ cả ngàn năm trước, dân chủ từ hạ tầng, từ xã ấp. Ở thượng tầng phải làm thế nào giữ được uy quyền tối thượng của quốc gia.

Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải dập khuôn như họ…nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu này khác…trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh.

Tổng Thống Kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có nghĩa là (mô) phỏng cơ chế dân chủ của Mỹ. Nhưng (), ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm về nạn chia rẽ, nạn kỳ thị phe phái…nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như ở Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hỗn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận được tình trạng hỗn loạn.

Câu hỏi: Hình như Tổng Thống Kennedy muốn Miền Nam có sự canh tân Hiến Pháp?

Ông Nhu trả lời: Không chính thức khuyến cáo như vậy nhưng Hoa Thịnh Đốn gián tiếp muốn chúng tôi làm như vậy.

Câu hỏi: Hầu hết người Mỹ đứng đắn đều không muốn Việt Nam bị xáo trộn nhưng họ muốn một chế độ cởi mở?

Ông Nhu trả lời: Vâng họ đang lên án chúng tôi là độc tài cũng như trước đây họ đã lên án Tưởng Giới Thạch và Lý Thừa Vãn… Người Mỹ đã lầm giữa chế độ độc tài với sự bảo vệ uy quyền quốc gia tối thượng. Chẳng hạn họ bảo chúng tôi là độc tài vì cho rằng không có Tối Cao Pháp Viện nên Hành Pháp điều khiển Tư Pháp. Họ cũng kết án chúng tôi là độc tài vì cho rằng Quốc Hội chỉ có một viện và do Quốc Hội không kiểm soát được Hành Pháp.

b) Trích từ Robert Kennedy and his time (đoạn Nhu nói với Maneli):

Tôi đang thực hiện một cuộc chiến để kết thúc chiến tranh vĩnh viễn tại Việt Nam; Tôi đang thực sự chiến đấu chống chủ nghĩa Cộng Sản để (sẽ) kết thúc chủ nghĩa tư bản vật chất. Tôi đang tạm thời xiết lại tự do để sẽ (sau này) cho nó (tự do) trong một hình thức vô hạn. Tôi đang củng cố kỹ luật để khai tử những trói buộc từ ngoại bang. Tôi đang tập trung hóa (tập quyền) đất nước để (sau này) sẽ dân chủ hóa và sẽ phân tán quyền lực (tán quyền)… Các ấp chiến lược là định chế căn bản của nền dân chủ trực tiếp. Khi người dân phát triển và thịnh vượng, họ sẽ trở thành hạt nhân chính của một tổ chức quốc gia, và rồi chính bản thân nhà nước – như Karl Marx đã nói — sẽ biến mất.

c) Trích phát biểu/phỏng vấn của ông Nhu:

Chủ thuyết Nhân Vị đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người và đẩy mạnh sự phát triển đến mức độ cao nhứt. Quan niệm này ở ngay trong truyền thống dân gian Việt Nam”. (Đại hội văn hóa quốc gia, 11-1-1957).

Tôi phải nói ngay rằng chủ thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến cái Nhân Vị Công Giáo đang được giảng dạy bởi các tổ chức Công Giáo tại miền Nam Việt Nam. Hiện nay cái học thuyết nhân vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là một món quà của ông già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng, mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được định sẵn”. (Phỏng vấn với báo Toronto Globe and Mail, bản dịch của tạp chí Gió Nam, 5-5-1963).

d) Trích từ “Chính đề Việt nam”:

““Nước Việt Nam là một nước nhỏ, nhỏ về dân số, nhỏ về lãnh thổ, nhỏ về kinh tế kém phát triển, và nhỏ về sự góp phần của chúng ta vào văn minh nhân loại.

Trong suốt phần lịch sử nhân loại mà chúng ta được biết tới ngày nay, số phận của các quốc gia nhỏ, từ xưa vẫn không thay đổi. Lúc nào các quốc gia nhỏ cũng phải bị chi phối bởi những trận phong ba bão táp vô trách nhiệm do các nước lớn gây ra. Và lúc nào cũng sống dưới sự đe dọa liên tục của một cuộc ngoại xâm.”

“Từ ngày lập quốc, hơn một ngàn năm lịch sử đã chứng minh rằng Việt Nam chúng ta không thoát ra ngoài vận mạng thông thường đó. Hết phải chống Bắc, rồi phải chống Tây, rồi lại phải chống Bắc. Liên tục, và lúc này hơn lúc nào hết, nạn ngoại xâm vẫn đe dọa Dân Tộc Việt Nam.”

‘’Trong quá khứ, ngay những lúc ta chiến thắng Trung Quốc, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng khôn ngoan hòa thuận với Trung Quốc và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng điều mà Trung Quốc muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống Trung Hoa, suốt thời gian gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như tạm mất’’

“Như vậy, thuyết cộng sản đối với Nga chỉ là một phương tiện và ngày nào mục đích đã đạt được, phương tiện sẽ không còn giá trị nữa.

Các biến cố hiện tại ở Âu Mỹ chứng tỏ rằng Nga sắp đến lúc bỏ phương tiện cộng sản và trở về với xã hội Tây phương.”

“Sức mạnh của nước Anh hay nước Mỹ mà chúng ta mục kích ngày nay bắt nguồn trước hết từ chỗ hai quốc gia này đã thực hiện được việc liên tục lãnh đạo quốc gia trong gần 200 năm.

Một nhà lãnh đạo Anh, ngày nay bước lên nắm chính quyền, là tức khắc sau lưng mình có 400 năm kinh nghiệm và văn khố làm hậu thuẫn. Đó là một di sản quí báu không có gì thay thế được và tạo cho họ một sức mạnh phi thường.”

“Như trên đã trình bày, sự lãnh đạo quốc gia được liên tục khi nào các điều kiện dưới đây được thỏa mãn:

1. Sự chuyển quyền được bình thường từ lớp người trước cho tới lớp người sau.

2. Các bí mật quốc gia được truyền lại.

3. Thuật lãnh đạo được truyền lại và được cải thiện càng ngày càng tinh vi.

4. Các kinh nghiệm của dĩ vãng được xếp vào văn khố, được truyền lại và có người biết sử dụng văn khố.”

“Trình độ gián đoạn trầm trọng nhất xảy ra khi sự chuyển quyền không thực hiện được giữa lớp người trước và lớp người sau. Bí mật lãnh đạo và bí mật quốc gia đều mất.

Thuật lãnh đạo không truyền lại được. Di sản dĩ vãng không người thừa nhận, văn khố thất lạc và bị cướp bóc. Đó là trường hợp của các nước bị chinh phục, mất chủ quyền. Và đó là trường hợp của Việt Nam chúng ta trong thời kỳ Pháp thuộc.”

Chính đề Việt Nam in ở Việt nam sau khi ông Nhu chết. Nhiều người nói đây là tập tài liệu do ông Nhu viết để đào tạo cán bộ năm 1961-1962. Sau năm 1975 có ông Lê Văn Đồng, trước chánh văn phòng bộ canh nông, lúc này đã di tản qua Mỹ, nhận mình chính là Tùng Phong. Sau đó có ông Lê Văn Lộc nói rằng chính ông Đồng trước năm 1975 đưa bản thảo Chính đề và nói là dịch từ tiếng Pháp của ông cố vấn. Tuy nhiên, tôi nghĩ tác giả của Chính đề Việt nam phải là trí thức cao thủ như ông Nhu thì mới có lý. (Hết trích)


-----------------------
Nguồn: 5xu blog

* Tiêu đề do NPK đặt



Monday, November 25, 2013

Khoảng lặng trái tim


KHOẢNG LẶNG TRÁI TIM
(VIẾT CHO ANH VÀ EM)

Nét đời thường em nén chặt vào tim
Miệt mài vuốt ve khổ đau…lâng lâng vỗ về hạnh phúc…
Em cứ thế với những điều rất thực
Thủ thỉ…hân hoan…với thế giới riêng mình…!

Thương anh,
thương em,
thương quấn riết say tình…
Thăng hoa,
tan trong nhau,
đến tận cùng sâu thẳm…
Mùi tóc...làn da…hơi thở…bàn tay ấm...
Gấp gáp nhiệm màu …tê tái…đê mê…

KHOẢNG LẶNG TRÁI TIM sao chất chứa bộn bề
Náo nhiệt ồn ào chỉ riêng hai đứa
Yêu Anh …yêu anh như từ muôn thưở
Say say trong nhau...như biển cả sóng ngầm...

---------------------
Đêm 25/11/2013
Hình minh họa từ internet

Friday, November 22, 2013

Băn khoăn từ những phát biểu của ông Tổng bí thư


Trong cương vị Tổng bí thư khi nêu quan điểm nhận thức về CNTB và CNXH ông đã nói:

"...Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày naycũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước. Tuy nhiên, nó không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó..."

"...Theo nhận thức của chúng tôi, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. ... Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa (vì chúng tôi còn đang trong thời kỳ quá độ)...."

"...Chúng tôi ý thức được rằng, đây là công việc vô cùng phức tạp đối với chúng tôi, là công việc chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa mò mẫm, rút kinh nghiệm;..."

Và mới nhất ông phát biểu rất rõ trước nhân dân cả nước (qua ti-vi):

"...Đổi mới chỉ là một giai đoạn, còn xây dựng CNXH còn lâu dài lắm. Đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa...".

Từ những phát biểu trên về CNTB và CNXH, thì thấy rất rõ mô hình nào đã rõ, đã được thực tiễn chứng minh và được nhiều quốc gia theo đuổi; mô hình nào chưa rõ, chưa có tiền lệ (chưa được chứng minh) và ít quốc gia theo đuổi.

Trong cương vị một đại biểu QH, khi bàn về sửa đổi Hiến pháp ông nói:

"Với phương châm cái gì đã rõ, đã chín, được thực tiễn chứng minh là đúng và tạo được sự thống nhất cao thì chúng ta sửa. Còn nếu chưa rõ, chưa chín, chưa được kiểm nghiệm qua thực tiễn và ý kiến còn khác nhau thì chưa nên sửa.... "

Phương châm đó không chỉ đúng với việc sửa đổi Hiến Pháp mà có lẽ đúng với tất cả các vấn đề hệ trọng, liên quan đến vận mệnh quốc gia dân tộc.  Vậy với tư duy lo-gic thì xin hỏi ông rằng: Việt Nam nên theo đuổi mô hình nào sẽ tốt hơn!?

---------------
Hình: Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng . Nguồn: Tuổi trẻ Online

Tuesday, November 19, 2013

30 năm đổi mới giáo dục

(Viết nhân ngày nhà giáo 20/11)

Công cuộc cải cách giáo dục đã có chừng hơn 30 năm. Đã có bao nhiều thế hệ học trò và giáo viên 'sang sông' trên 'con đò giáo dục Việt Nam'. Thông thường cải cách bất cứ một cái gì, là mong cho nó tốt hơn, chắc chắn hơn và hiện đại hơn để qua đó đạt được hiệu quả tốt hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn. Cải cách giáo dục hẳn không ngoài mục đích ấy.

Tuy nhiên, thực tế chúng ta đang có một nền giáo dục như thế nào?

Về chương trình nội dung, trong 30 năm qua không biết có bao nhiêu lần thay đi đổi lại. Mỗi lẫn như thế, người ta - những người có trách nhiệm - lại có lý do để giải thích và khẳng định tính tiến bộ của chương trình giáo dục. Cải cách nhữ viết như một chu kỳ, thay đi đổi lại cuối cùng quay về đúng mẫu tự ban đầu. Cải cách chương trình nội dung thì với cấp tiểu học ngày càng nặng và áp lực, trẻ con ngày càng mất đi tuổi thơ. Cấp trung học thì không thực tế và giáo điều, học trò ngày càng hổng kiến thức lịch sử, văn hóa. Ngôi trường nào cũng trang trọng với khẩu hiệu "Tiên học lễ, hậu học văn" nhưng thử hỏi học trò có được học đủ Lễ và Văn ấy không?. Cấp đại học, vẫn duy trì lối học trả bài, thiếu sáng tạo thiếu thực tế và bó buộc trong ý thức hệ. Sao có thể đủ tự tin và năng lực khi đối diện với môi trường xã hội luôn biến động phức tạp hiện nay...

Về phương pháp, có giai đoạn người ta hô hào phải đổi mới tư duy và phương pháp giảng dạy. Nhưng từ mong muốn đến thực tế vẫn còn khá xa. Muốn vậy trước hết phải đổi mới tư duy cho toàn bộ đội ngũ giáo viên, việc này xem ra bất khả thi rồi bởi cả lý do về kinh phí, cả về tổ chức. Thứ đến phải thay đổi tiêu chí đánh giá phân loại, thi cử. Và thực tế 30 năm qua, thi cử vẫn nặng về thành tích, nhiều tiêu cực và không phản ánh đúng chất lượng. Hiện tượng học giả bằng thật tràn làn.

Còn môi trường giáo dục ở nhà trường, đầy rẫy những vụ việc phản cảm đau lòng hầu hết các cấp học. Từ việc đổi tình lấy điểm, bảo mẫu hành hạ các cháu mầm non trong những năm qua hay việc học sinh giết nhau dường như không còn quá xa lạ. Mới đây một em bé lớp hai bị đuổi bơ vơ trước cổng trường không được ăn cơm chậm đóng tiền càng cho thấy bộ mặt thật của môi trường giáo dục hiện nay đã xuống cấp lắm rồi. Người ta, không còn coi việc giáo dục con người là thiêng liêng cao quý nữa mà đơn giản hơn giáo dục con người là một nghề kinh doanh. Xã hội hóa giáo dục bị biến tướng làm bình phong cho thực tế: Môi trường giáo dục lấy đồng tiền làm thước đo!

Và dĩ nhiên với nội dung, phương pháp giáo dục và môi trường như trên thì không thể có chất lượng giáo dục tốt được. Căn cứ đánh giá chất lượng giáo dục thì có nhiều, nhưng chung quy nhìn vào nhân cách của con người - sản phẩm của nền giáo dục ấy. Cõ lẽ không có mình họa nào hơn cho chất lượng của 30 năm cải cách với kết quả nền giáo dục Việt Nam xếp sau cả Campuchia.

Lại nhớ, cách mấy năm ông Nguyễn Thiện Nhân phát động rầm rộ các phong trào hai không, ba không ... mong muốn chấn chỉnh lại nhận thức cũng như cách làm giáo dục. Nó đi trúng tâm lý xã hội về thực trạng xuống cấp của nền giáo dục nhưng thử hỏi một mình ông ấy sẽ làm được gì, khi những người còn lại trong Bộ GD không chắc đã đã nhận thức và hành động cùng hướng. Kết quả những phong trào ấy cũng ra đi như cách ông đến và đi với ngành Giáo dục.

Vừa rồi trên báo tuổi trẻ có đăng bài Học để làm gì? bàn về chủ đề cải cách giáo dục. Có lẽ những người làm giáo dục có trách nhiệm và cả những nhà chính trị thừa hiểu những điều cốt yếu của nền giáo dục. Nhưng, câu hỏi tại sao biết như vậy mà công cuộc giáo dục của đất nước vẫn thụt lùi trong 30 năm?. Câu hỏi này họ cũng có thể trả lời một cách dễ dàng, tuy nhiên họ có quyết tâm để làm hay không khi ý thức hệ vẫn bó buộc trong định hướng... xa vời(*) lại là chuyện khác.

Với 30 năm cải cách chúng ta đã tốn kém lãng phí rất nhiều tiền của, nhưng buồn hơn lại chính là hệ lụy của những cải cách ấy với đời sống xã hội. Chưa có gì đảm bảo các cải cách trong giáo dục hiện thời là đúng đắn, điều đó cho thấy con cái chúng ta vẫn tiếp tục là đối tượng của những công cuộc cải cách. Giáo dục Việt Nam vẫn chưa thoát khỏi loay hoay trong việc chọn lựa đào tạo nên con người mới XHCN hay là con người có tâm hồn Việt Nam. Buồn thay!

--------------------------------
- Nguồn ảnh: internet

Sunday, November 17, 2013

Độc thoại về 'Người tình'


- Hay không?
- Hay.
- Hay chỗ nào?
- Không biết nữa.
- Không biết sao thấy hay?
- Uhm, vì khó tả.
- Vậy thích không?
- Không thích.
- Sao không thích?
- Nội dung thường thôi.
- Còn gì nữa?
- Trần trụi, thô tục quá
- Uhm...gì nữa?
- Cả thực dụng nữa.
- Còn nữa ko?
- À, ừ... chắc là còn...mà thôi, cứ vậy cũng được.
- Cảm giác giờ ntn?
- Luôn ám ảnh với điều được thấy và tự hỏi vì sao, vì sao, vì sao... Tất cả như vô lý lại rất có lý.
- Tại sao?
- Tại ngạc nhiên và bất ngờ với câu chuyện
- Ngạc nhiên, bất ngờ điều gì?
- Ko thật sự lãng mạn như tưởng tượng.
- Vì sao lại tưởng tượng phải lãng mãn?
- Vì lãng mạn vốn là bản chất của cuộc tình.
- Vậy đây có phải cuộc tình ko?
- À...à.. không phải.
- Vậy là gì?
- Người Tình.

==>> MỜI XEM Ở ĐÂY

* 14/12/2015: Bổ sung tài liệu PDF về Người tình (Nguồn: viet-studiea): Ở đây

------------------------

P/s: Độc thoại sau khi xem phim Người tình, môt tác phẩm chuyển thể từ tác phẩm cùng tên của nhà văn M. Duras.

Thursday, November 14, 2013

Rang cafe thủ công 1

Cà phê đang trở thành thức uống ngày càng được ưa chuộng. Cũng vì thế, trên thị trường bây giờ, chất lượng cà phê bán trong các quán hàng đang là dấu hỏi lớn. Báo chí cúng đã nêu lên thực tế là cafe dỏm, chế biến bằng pha trộn các hương liệu và hóa chất, rất có hại cho người tiêu dùng. Được biết hầu hết cafe bán trong các quán hiện nay, tỷ lệ cà phê thật rất ít, còn lại được trộn thêm các nguyên liệu khác như đậu nành, bắp, cau ...
Nếu biết như vậy mà vẫn chấp nhận thưởng thức thứ cafe đó quả là cẩu thả với chính mình! Tại sao không thử tự mình làm cho chính mình một ly cafe theo đúng nghĩa đen của từ này. Có nghĩa là hãy tự lụa chọn từng hạt cafe, sau đó rang ngâm tẩm và xay cà fe cho chính mình thưởng thức!? Và qua đó tự tìm cho mình một 'gout riêng và receipe riêng' cho mình.
Với tinh thần ấy, từ hôm nay NPK sẽ tiến hành thư nghiệm việc rang xay cafe cho mình. Mỗi lần rang sẽ cập nhật lên blog nhưng nhận xét hoặc những nét riêng để từ đó dần dần tìm cho mình mẻ rang cho hạt cafe phù hợp với mình nhất, pha được ly cafe ngon nhất cho mình. Dĩ nhiên, tiêu chí hàng đẫu sẽ đảm bảo 100% cà phê thật và nói không hoàn toàn với hóa chất độc hại!

Dưới đây là mẻ rang caphe đầu tiên:
1/ Nguyên liệu:

Nguyên liệu trước khi đưa vào rang

- Cỡ hạt : trên sàng 16
- Loại: Robusta
- Số lượng: 3 chén ăn cơm. (Rang 3 mẻ. Mỗi mẻ 01 chén)

2/ Phụ liệu:

Theo thứ tự: Bơ, rượu trắng, nước mắm

- Mỡ bò
- Bơ,
- Rượu trắng
- Nước mắm.

3/ Dụng cụ:
- Bếp ga
- Chảo rang
- Quạt điện.

4/ Quy trình thức hiện:
- Cho chảo sạch lên bếp ga, chờ chảo bắt đầu nóng nhẹ cho cà phê vào chảo đảo đều. Khoảng 2 phút sau, cho cục mỡ bò khoảng 1,5 cm3 vô đảo cùng với cà phê. Lửa vừa.
Lúc này chảo nóng, mỡ bò sẽ tan chảy vào bám vào cà phê đều đặn.
- Khoảng 7-8 phút thì mỡ bò tan và ngầm đều vào hạt cà phê. Lúc này cũng với nhiệt độ làm cho hạt cà phê chuyển màu vàng nhạt.
- Tăng lửa lớn hơn chút, đảo nhanh tay trong khoảng 3 phút. Thời gian này cà phê chuyển màu nhanh từ vàng nhạt - vàng  - vàng sậm và sậm màu nhạt hơn cánh gián.
- Hạ lửa, cho bơ vào đảo nhanh tay cho bơ tan và áo đều mẻ cà phê bóng loáng. Tăng lửa lên và đảo nhanh tay. cà phê sẽ thơm và tiếp tục chuyển màu cánh gián và bóng đều. Có các tiếng nổ lách lách. Lúc này thấy các vỏ lụa cafe bị tách ra. Kể từ lúc này vừa đảo vừa thổi cà phê cho vỏ lụa bay ra khỏi chảo.
- Tiếp theo phun nước mắm và liên tục đảo cà phê. Hạt ca phê có vẻ đã chín đều và tiếp nhận thêm vị đặm đà từ nước mắm. Xịt khoảng 5-6 lần là ok.
- Khí thấy caphe sậm màu già cánh gián, thì tắt bếp và lập tức xịt rượu vô và đảo nhanh tay cho đều. 3-4 lần.
- Cuối cùng đổ cafe ra mâm sạch và dùng quạt quạt mạnh cho cafe nhanh nguội.
Thời gian rang và đỏ ra mâm khoảng 18 phút.
Và sản phẩm sau khi ràn như sau:

Hạt cafe sau khi rang.

Đổ ra mâm và quạt cho nguội.

5/ Sau khi xay nhỏ mịn và cho vào hộp đậy kín :

Kết quả này là hơn mong đợi cho lần đầu thực nghiệm

6/ Và đây là kết quả cuối cùng:

Hãy thưởng thức thôi!!!!

7/ Một số nhận xét, lưu ý:
- Theo cảm nhận cafe vẫn chưa thật đặm đà như mình muốn. Có thể do chưa đủ già lửa hoắc có thể phải thêm nước mắm.
- Chưa có bổ sung thêm Arabica. Theo đó có thêm lượng cafe arabica sẽ giúp cho cà phê thơm hơn.
- Có người hướng dẫn, nễn mua thêm một ít cafe từ tiệm rang xay cho vào sẽ thơm ngon hơn.
- Tuy nhiên, lần đâu tiên làm được kết quả như trên, cũng là một sự cố gắng và thành tựu hơn mong đợi.


Tuesday, November 12, 2013

Clip về các bài nói trên trang Góc nhìn Alan

Trang Góc nhìn Alan vừa thông báo bộ video-clip của các ngày hội chứng khoán cũng như các buổi nói chuyện tại các đại học. Share về nhà hôm nào rỗi rãi nghe. Hy vọng sẽ thú vị bổ ich.

SUPER STOCK DAY 2012:
1. Super Stock Day 2012 – ThS. Phạm Ngọc Bích: http://www.youtube.com/watch?v=fnAdW7QuOlU
2. Super Stock Day 2012 – TS. Lê Đạt Chí: http://www.youtube.com/watch?v=-U3mWf3vh5g
3. Super Stock Day 2012 – ThS. Lê Gia Huấn: http://www.youtube.com/watch?v=iBnV82blWBs
4. Super Stock Day 2012 – Ông Nguyễn Thế Lữ: http://www.youtube.com/watch?v=epY8MHc9CX4
5. Super Stock Day 2012 – Cơ Hội Kinh Doanh: http://www.youtube.com/watch?v=1uUUzPwdLfI
6. Super Stock Day 2012 – TS. Jennifer Tran: http://www.youtube.com/watch?v=FbRaXA4CiPo
7. Super Stock Day 2012 – TS. Nguyễn Mạnh Hùng: http://www.youtube.com/watch?v=kVkdaDO_94k
8. Super Stock Day 2012 – TS. Alan Phan: http://www.youtube.com/watch?v=-9Lp35Gjrdo
9. Super Stock Day 2012 – TS. Đinh Thế Hiển: http://www.youtube.com/watch?v=wDUvr_qe3fY
10. Super Stock Day 2012 – TS Hồ Công Hưởng: http://www.youtube.com/watch?v=iq9k-drTwoY
11. Super Stock Day 2012 – TS. Alan Phan – Tổng kết Chương trình: http://www.youtube.com/watch?v=1WuUfxJdQec

ĐẠI HỌC CÔNG NGHIÊP VÀ HỘI DOANH NHÂN
Tiến sĩ Alan Phan trò chuyện tại ĐH Công Nghiệp TPHCM_P1: http://www.youtube.com/watch?v=wR48NnfVQlM
Tiến sĩ Alan Phan trò chuyện tại ĐH Công Nghiệp TPHCM_P2: https://www.youtube.com/watch?v=7bAKxcSO9C4
Tiến sĩ Alan Phan và Đặng Lê Nguyên Vũ trò chuyện tại Riverside Palace_P1: https://www.youtube.com/watch?v=Y154x0iGDaw
Tiến sĩ Alan Phan và Đặng Lê Nguyên Vũ trò chuyện tại Riverside Palace_P2: https://www.youtube.com/watch?v=ydp7ZylHb44
Tiến sĩ Alan Phan và Đặng Lê Nguyên Vũ trò chuyện tại Riverside Palace_P3: https://www.youtube.com/watch?v=4YgiYsa7YGk

------------------
Nguồn: Góc nhìn Alan

Friday, November 8, 2013

Hướng dẫn kỹ năng gấp áo trong 2 giây

Đơn giản, dễ học, người xem không khỏi 'mắt chữ O, miệng chữ A thán phục.
Đoạn clip dài hơn 1 phút do nhóm Davehax thực hiện đã thu hút hàng triệu người xem. Trong video là những bước hướng dẫn cách gấp áo cực nhanh. Chỉ với những "đường kẻ", "tụ điểm" chính trên áo, cùng thao tác cực đơn giản, bạn đã có thể gấp hàng chục chiếc áo chỉ trong vòng vài phút. Không những thế, chiêu thức này còn được áp dụng cho nhiều loại áo từ áo phông, tới sơ mi ngắn tay...

 

 Nguồn: Youtube

Thursday, November 7, 2013

Nghĩ về quốc tang tướng Giáp

Tướng Giáp - hẳn nhiên ông là người tài. Nhưng tài ở mức độ nào thì còn phải tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử của cuộc đời ông gắn với những biến cố dân tộc trong thế kỷ 20.
Hình minh họa. Nguồn: internet

Cái chết của ông vừa tròn 1 tháng đã là một sự kiện lớn của đất nước. Lễ Quốc tang được tổ chức quy mô và hàng chục vạn dân chúng đến viếng ông được coi là sự kiện hiếm có trong mấy chục năm qua, kể từ khi ông Hồ từ trần. Trên mạng chia ra hai luồng đánh giá về sự nghiệp của ông. Khen, khen hết lời. Có cả đòi phong Thánh cho ông và cả những tâng bốc thậm lố bịch . Họ coi điều đó thể hiện sự vĩ đại của con người ông.
Ngược lại, chê cũng hết mức. Coi ông chẳng có tài cán gì và vu cho ông như là tội đồ trong thời gian ông tại vị. Những người chê bai mạt sát ông, chắc không thể cùng thời với ông và cũng không có những chứng cứ gì xác thực. Chủ yếu là vu vơ, thiếu cơ sơ và đoán mò.
Tóm lại họ không muốn đối diện với sự thật ông là người lãnh đạo quân đội qua hai cuộc chiến tại VN trong thế kỷ 20. Trong hào quang chiến thắng của dân tộc, ông là một ngôi sao sáng.
Sau khi ông chết ít hôm, người ta phát hiện ra sự thật cuộc đời, sự nghiệp của ông vắng bóng trong sách giáo khoa. Trong môi trường giáo dục VN, đây không hẳn là lỗi kỹ thuật hay là sự thiếu sót đáng tiếc. Sự thật này phần nào hé lộ cái nhìn của VN về cuộc đời ông. Vậy tại sao khi ông chết người ta lại tổ chức Quốc tang và đề cao ông đến vậy?.
Để trả lời câu hỏi này không dễ, nhưng không quá khó để nhận ra bản chất vấn đề. Chúng ta hãy thử đặt vào đó một chữ "NẾU" trong các trường hợp sau đây và tìm hiểu thêm một chút sẽ thấy được lý do:
- Nếu ông mất năm 1993 (tức là 2 năm sau khi ông bị loại các chức vụ, về nghỉ) thì đám tang ông có quốc tang không?
- Nếu ông mất năm 2003 thì đám tang ông có được quốc tang không?
Nhân tiện cũng muốn nhắc lại, cách đây 50 năm vào tuần đầu tháng 11 này, có một cái chết thảm khốc của một chính trị gia. Ông là Ngô Đình Diệm - người cùng quê với ông Giáp. Cái chết của ông bi thảm và gây sốc cho cả bên hai phía Quốc - Cộng. Không quốc tang, cũng chẳng than khóc. Nhưng tài năng và đức hạnh của ông đang khiến cho nhiều thế hệ tiếp sau xem cái chết của ông là mất mát lớn cho lịch sử VN trong thế kỷ 20.
Cả hai ông đêu đã chết. Khi sống họ tất nhiên rất muốn đồng chí của mình hiểu và chia sẻ những quan điểm của mình, nhưng xem ra họ không may mắn như vậy. Khi chết họ không để lại thông điệp gì to tát cho hậu thế, họ thanh thảnh ra đi. Họ đã cống hiến hết cho đời trong phận sự của mình được lịch sử giao.
Tất cả do người còn sống cách nay cách khác muốn họ phải gánh thêm cho mình vinh dự và hào quang ảo ảnh cõi trần thế mà thôi!

Wednesday, November 6, 2013

Mưa Sài gòn


Sài gòn - độ ấy, bây giờ
Bao lâu nữa tới bến bờ ngày xưa.
Hàng me cổ thụ già nua
Đèn vàng hắt bóng dưới mưa, thật buồn.
Trớ trêu dâu bể dập dồn
Đời như con nước mất - còn, tái sinh.

Hỏi rằng mấy cuộc điêu linh
Sài gòn có thấu trong mình hỗn mang!?.


Tuesday, November 5, 2013

Vài lời



Blog này là cuốn sổ tay lưu lại những gì chợt đến, chợt đi trong suy nghĩ một con người. Là nơi cất giữ những nhặt nhạnh trên mạng để khi cần thì tiện lấy ra xem cho nhanh đỡ mất thời gian kiếm tìm.
Nó không có chủ trương hay chuyên về vấn đề gì cả. Hỷ, nộ, ái, ố đều có thể được gom về đây, không phân biệt và không kiêng kỵ. Nhưng chắc chắn khi được lưu giữ vào đây là nó phản ánh cái tâm tư và cảm xúc của chủ nhà tại thời điểm đó.
Chủ nhà là ai. Xin thưa một người phiêu lưu tự do trên mạng và ưa tìm kiếm sự thật trần trụi của sự vật hiện tượng qua góc nhín đa dạng. Chỉ để hiểu đúng và sống tử tế hơn.
Chủ nhà cũng là người ưa mò mẫm, dò tìm kiến thức và thích chơi. Đừng ngạc nhiên khi blog này có cả những nội dung thủ thuật liên quan đến code, template và linh tinh về công nghệ mạng.
Chủ nhà cũng là người mê ảnh và nghệ thuật. Hiểu không nhiều về lĩnh vực này nhưng thấy thích thì sưu tầm và xem những khi rãnh rỗi.
Vài lời xin thưa...
Ai thấy hữu ích cho mình thì đến, nhảm thì đi. Đến đi là bổn phận của kiếp người, đừng oán trách chi nhau!
Cảm tạ!